Zithromax (kỳ 2)
Ở bệnh nhân suy thận nhẹ (thanh thải creatinine > 40 ml/phút), không có
bằng chứng thay đổi đáng kể trên dược động học trong huyết thanh của
azithromycin khi so sánh với người có chức năng thận bình thường. Không có số
liệu dược động học về sự sử dụng azithromycin ở bệnh nhân có mức độ suy thận
nặng hơn.
Trên những bệnh nhân suy gan nhẹ (nhóm A) đến trung bình (nhóm B),
không có bằng chứng thay đổi đáng kể về dược động học huyết thanh của
azithromycin khi so sánh với người có chức năng ganbình thường. Ở những người
này, mức độ tìm thấy azithromycin trong nước tiểu hơi cao hơn, có lẽ là do bù trừ
lại với sự giảm thanh thải ở gan.
Các nghiên cứu dược động học đã chứng minh được nồng độ azithromycin
cao hơn đáng kể trong mô so với trong huyếttương (gấp 50 lần nồng độ tối đa
quan sát được trong huyết tương), cho thấy thuốc có ái lực cao với các mô. Sau
liều duy nhất 500 mg, nồng độ azithromycin trong các mô đích như phổi, amiđan
và tiền liệt tuyến vượt quá MIC
90
cho hầu hết các vi khuẩn gây bệnh.
Khoảng 12% liều tiêm tĩnh mạch được đào thải trong nước tiểu trong vòng
3 ngày dưới dạng không đổi ban đầu, phần lớn được tìm thấy trong 24 giờ đầu
tiên. Nồng độ rất cao thuốc dưới dạng không đổi được tìm thấy ở mật cùng với 10
chất chuyển hóa hình thành do sự N-và O-demethyl hóa, hydroxyl hóa desosamine
và vòng aglycone, và bởi sự phân chia liên hợp cladinose. So sánh kết quả sắc ký
lỏng cao áp và vi sinh học ở các mô cho thấy các chất chuyển hóa không có vai trò
gì trong hoạt tính vi sinh của azithromycin.
Trong các nghiên cứu thực hiện trên thú vật, nồng độ cao azithromycin
được tìm thấy trong các thực bào. Trong các mẫu thực nghiệm, nồng độ cao
azithromycin cũng được phóng thích khi có thực bào chủ động nhiều hơn so với
thực bào không được kích thích. Trong các mẫu thú vật thí nghiệm, các kết quả
này cho thấy nồng độ azithromycin cao tại vị trí nhiễm khuẩn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- zithromax_ky_2_592.pdf