Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, các công ty khởi nghiệp tập trung vào phát
triển ứng dụng công nghệ trong tài chính (Fintech), tạo ra làn sóng đầu tư và sự bùng nổ
của các dịch vụ này trên toàn cầu, tác động mạnh đến hoạt động của các ngân hàng. Bài
viết tập trung vào một số nội dung chủ yếu về Fintech, nền tảng hình thành, xu hướng
phát triển và các tác động tới ngành Ngân hàng của Việt Nam.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Xu hướng phát triển Fintech trên thế giới và ảnh hưởng của nó đến ngành Ngân hàng việt nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
202
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
XU HƯỚNG PHáT TRIỂN FINTECH TRÊN THẾ GIỚI
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN NGÀNH NGÂN HÀNG VIệT NAM
ThS. Trần Thị lan hương1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tóm tắt
Sau khủng hoảng tài chính năm 2008, các công ty khởi nghiệp tập trung vào phát
triển ứng dụng công nghệ trong tài chính (Fintech), tạo ra làn sóng đầu tư và sự bùng nổ
của các dịch vụ này trên toàn cầu, tác động mạnh đến hoạt động của các ngân hàng. Bài
viết tập trung vào một số nội dung chủ yếu về Fintech, nền tảng hình thành, xu hướng
phát triển và các tác động tới ngành Ngân hàng của Việt Nam.
Từ khóa: Fintech, ngân hàng, khởi nghiệp
1. Xu hướng pháT Triển FinTeCh TrÊn Thế giới và ở việT nam hiện nay
Thuật ngữ Fintech mặc dù được sử dụng rộng rãi gần đây nhưng vẫn chưa có một
định nghĩa chính thống vì nó liên quan đến nhiều thuật ngữ khác trong sáng tạo và công
nghệ, một lĩnh vực mà sự thay đổi diễn ra rất nhanh chóng. Không những thế, một số
định nghĩa tách biệt giữa sáng tạo (innovation - thích ứng với các quy định hiện nay) và
đột phá (disruption - bỏ cái cũ). Theo Hội đồng vì Sự ổn định Tài chính (FSB) và Ủy ban
Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS), Fintech được định nghĩa là “các sáng tạo trong tài
chính dựa trên nền tảng công nghệ nhằm tạo ra các mô hình kinh doanh, ứng dụng, quy
trình, hay sản phẩm mới có tác động cụ thể đến các thị trường và định chế tài chính, cũng
như trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính”. PwC (2016) định nghĩa: Fintech là một lĩnh
vực giao thoa của dịch vụ tài chính và công nghệ. Tại đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp và
doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường sử dụng công nghệ để cải tiến, đổi mới các sản
phẩm và dịch vụ đang được cung cấp bởi các định chế tài chính truyền thống. Theo định
nghĩa của IOSCO (2017): Fintech là thuật ngữ được sử dụng để miêu tả các mô hình kinh
doanh sáng tạo và công nghệ mới nổi có khả năng biến đổi ngành dịch vụ tài chính. Các mô
hình kinh doanh công nghệ tài chính sáng tạo thường cung cấp một hoặc nhiều loại dịch
vụ tài chính theo cách tự động hóa thông qua việc sử dụng Internet. Công nghệ mới nổi
như hệ thống điện toán nhận thức, học máy, Trí tuệ nhân tạo và công nghệ sổ cái phân
tán được ứng dụng bởi những tổ chức Fintech mới gia nhập thị trường và cả những định
chế tài chính truyền thống có tiềm năng thay đổi cơ bản ngành dịch vụ tài chính.
1 Email của tác giả: lanhuong1702@gmail.com
203
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Ở Việt Nam, Theo NHNN, Fintech được định nghĩa như sau: “Fintech là viết tắt của
cụm từ financial technology (công nghệ tài chính), được hiểu theo nghĩa là việc áp dụng các
công nghệ đổi mới, sáng tạo và hiện đại cho lĩnh vực tài chính (bao gồm ngân hàng, bảo
hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, dịch vụ thanh toán và các cơ sở hạ tầng tài chính...), nhằm
mang tới cho khách hàng các giải pháp/dịch vụ tài chính minh bạch, hiệu quả và thuận tiện
với chi phí thấp hơn so với các dịch vụ tài chính truyền thống.”
Như vậy, thuật ngữ Fintech liên quan tới việc ứng dụng sáng tạo công nghệ tiên tiến
vào lĩnh vực tài chính, thiết kế và cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính số hóa. Các
công ty khởi nghiệp Fintech sử dụng những tiến bộ công nghệ để cải tiến các dịch vụ tài
chính như quá trình thanh toán, chống gian lận, cải thiện các kế hoạch tài chính, quản
lý tài sản, cho vay và gây quỹ.
Nền tảng cho sự ra đời và phát triển bùng nổ của Fintech
(i) Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 tới niềm tin vào hệ thống
ngân hàng và dịch vụ tài chính truyền thống. Khủng hoảng tài chính năm 2008 đã dẫn
tới sự mất tin tưởng của thị trường vào những ngân hàng lớn. Đồng thời, thị trường trở
nên cởi mở hơn đối với những dịch vụ tài chính mới, được đưa ra bởi các công ty khởi
nghiệp. Khủng hoảng năm 2008 cũng làm gia tăng các quy định bắt buộc để đảm bảo
an toàn hệ thống, nhiều ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng,
đồng thời chi phí hoạt động của các định chế tài chính truyền thống có xu hướng tăng,
hệ thống hoạt động thiếu linh hoạt, thiếu minh bạch và ẩn chứa nhiều tiêu cực.
(ii) Kỳ vọng của khách hàng đối với dịch vụ tài chính. Khách hàng ngày càng quen
thuộc với trải nghiệm công nghệ số tiện ích do các công ty công nghệ như Google,
Amazon, Facebook và Apple cung cấp, do đó, họ cũng mong đợi những dịch vụ mới có
chất lượng tương đương, cho phép cá nhân hóa và số hóa các tương tác của khách hàng
từ nhà cung cấp dịch vụ tài chính.
(iii) Rào cản gia nhập thị trường đối với các công ty Fintech tương đối thấp. Các
công ty Fintech có cơ hội tận dụng lợi thế của công nghệ mới và các dịch vụ sẵn có trên
điện toán đám mây, giao diện lập trình ứng dụng (API) để tiết kiệm chi phí đầu tư. Chi
phí của việc khởi tạo một doanh nghiệp công nghệ đang ngày một giảm. Trong khi đó,
việc tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm thuận tiện hơn. Các quỹ đầu tư mạo
hiểm đã tăng đầu tư vào Fintech trong những năm qua, chạm mốc 25 tỷ USD vào năm
2015. Các công ty Fintech cũng chưa bị giới hạn bởi các điều luật và quy định chặt chẽ
về vốn, hoạt động... như các định chế tài chính truyền thống, quy mô lớn, do đó các
Fintech có chi phí hoạt động thấp hơn và nhiều thuận lợi hơn khi đáp ứng nhu cầu của
khách hàng.
204
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
(iv) Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ mới nổi. Sự phát triển và phổ biến
của mạng xã hội, phân tích Dữ liệu lớn và truy xuất thông tin qua điện thoại di động tạo
điều kiện cho các Fintech phát triển lớn mạnh. Các ứng dụng điện tử, mô hình hỗ trợ
vốn từ thị trường và marketing dựa vào con người tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Fintech
so với các nền tảng tài chính truyền thống. Mạng lưới thanh toán nhanh hơn giúp giảm
thời gian chuyển tiền từ 2 - 3 ngày xuống còn vài giây, Dữ liệu lớn cho phép tăng doanh
số bán hàng nhờ vào kết hợp phân tích và tiếp thị sản phẩm mới trên thị trường, cải tiến
dịch vụ, làm cho quy trình truyền thống trở nên hiệu quả và minh bạch hơn. Bitcoin và
các loại tiền tệ kỹ thuật số cho phép chuyển giao phi tập trung tài sản mà không cần cơ
quan thanh toán bù trừ trung ương. Mạng xã hội tạo môi trường cho việc giới thiệu và
tạo ra các cộng đồng số, góp phần giảm chi phí mua thông tin khách hàng, tạo thuận lợi
cho sự phát triển của nền kinh tế chia sẻ.
Trên thế giới, sự phát triển nhanh chóng của Fintech được đánh dấu bởi sự gia tăng
số lượng các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech trong giai đoạn 2010 - 2016,
đạt 4.000 doanh nghiệp vào năm 2015 (theo báo cáo của Moody). Chỉ tính riêng trên
thị trường châu Á, số lượng công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech đã tăng từ 800
doanh nghiệp vào tháng 4/2015 lên 2.200 doanh nghiệp tính đến cuối năm 2015 (theo
báo cáo của McKinsey). Đầu tư toàn cầu vào các công ty Fintech tăng nhanh, từ 9 tỷ USD
với 319 giao dịch vào năm 2010 lên 47 tỷ USD với 1.255 giao dịch vào cuối năm 2015.
Tính đến cuối năm 2016, đầu tư toàn cầu vào các công ty tài chính đạt 24,7 tỷ USD với
1.076 giao dịch, giảm tương ứng gần 50% và 14,3% so với năm 2015, do tâm lý thận trọng
của giới đầu tư trước những kết quả và tác động khó dự đoán của sự kiện cử tri Anh bỏ
phiếu rời Liên minh châu Âu (Brexit), bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, suy giảm kinh tế tại
Trung Quốc, những biến động tỷ giá trong biên độ rộng và các yếu tố khu vực khác.
Ngược lại, tổng vốn đầu tư mạo hiểm trong năm 2016 tiếp tục xu hướng tăng. Đầu
tư bằng đồng USD tăng từ 12,7 tỷ lên 13,6 tỷ, trong khi hoạt động giao dịch giảm từ 940
giao dịch xuống còn 840 giao dịch so với năm 2015. Nguồn vốn đầu tư mạo hiểm và
các giao dịch liên quan tới Fintech đã tăng hơn 2 tỷ USD với 199 thỏa thuận trong quý
IV/2016.
Đầu tư vào Fintech tập trung chủ yếu tại các thị trường phát triển như Hoa Kỳ, châu
Âu, nhưng đang có xu hướng chuyển dịch sang các thị trường mới nổi châu Á. Từ năm
2010 - 2014, tổng vốn đầu tư vào Fintech tại Bắc Mỹ là 32,36 tỷ USD, tiếp theo là Châu
Âu với 9,9 tỷ USD, châu Á với 6,67 tỷ USD (theo William Garrity). Tuy nhiên, xu hướng
đầu tư đang thay đổi, hướng tới các thị trường mới nổi và đang phát triển tại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Đầu tư vào Fintech tại khu vực này tăng gấp bốn lần trong
205
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
năm 2015, đạt 4,3 tỷ USD, chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trong tổng đầu tư toàn cầu của năm
2015 - 2016, chỉ sau khu vực Bắc Mỹ (theo Accenture). Tại châu Á, Singapore dẫn đầu
trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực Fintech, giúp quốc gia này duy trì vị thế hàng đầu
trong lĩnh vực tài chính và công nghệ trong khu vực, đồng thời giúp Singapore trở thành
điểm đến hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có
nhiều biến động.
Chính phủ các nước đã bắt đầu nhìn nhận vai trò quan trọng của Fintech trong việc
hỗ trợ tài chính bao quát toàn diện, nâng cao hiệu quả hệ thống ngân hàng, qua đó cải
thiện tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Một số chính phủ và các cơ quan quản lý tài
chính sớm ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển các trung tâm và công ty Fintech,
giải quyết các thách thức về quy định, điều luật liên quan tới công nghệ mới. Chính phủ
một số quốc gia có chủ trương hợp tác, giảm thiểu các rào cản pháp lý liên quan đến
sự phát triển của các công ty Fintech. Tại Anh, trong năm 2016, Chính phủ chủ trương
thiết lập các cầu nối Fintech với Úc, Singapore và Trung Quốc, dự kiến sẽ thiết lập với
Bỉ và Canada trong năm 2017. Cũng trong năm 2016, Chính phủ các nước Anh, Úc,
Singapore, Malaysia và Thái Lan đã công bố việc phát triển các chương trình quy định
bảo mật máy tính.
Tại Việt Nam, Fintech đang trong giai đoạn mới phát triển, dự báo sẽ phát triển mạnh
hơn trong giai đoạn tới, nhờ vào những tiềm năng từ thị trường như dân số Việt Nam với
hơn 90 triệu người, tỷ lệ dân số trẻ và tài khoản sử dụng Internet ở mức cao, tỷ lệ người sở
hữu tài khoản ngân hàng chiếm 20%, với 3% người có thẻ tín dụng. Các doanh nghiệp khởi
nghiệp Fintech tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào mảng thanh toán trực tuyến (MoMo,
Moca, 123Pay, VinaPay, Onepay...), gây quỹ cộng đồng (FundStart, Comicola, Betado,
Firststep), cho vay trực tuyến (BankGo), quản lý dữ liệu tài chính cá nhân (MoneyLover,
Mobivi). Hiện tại, các doanh nghiệp khởi nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài đều đánh
giá còn nhiều cơ hội chưa được khai thác ở mảng Fintech tại Việt Nam.
Theo Fintech News (2017), Việt Nam có 48 công ty Fintech và 48% công ty tham gia
vào hoạt động thanh toán, cung cấp cho khách hàng và các nhà bán lẻ các dịch vụ thanh
toán trực tuyến hoặc các giải pháp thanh toán kỹ thuật số. Một số ít công ty hoạt động
trong lĩnh vực gọi vốn, chuyển tiền, blockchain, quản lý tài chính cá nhân, quản lý POS,
quản lý dữ liệu, cho vay và so sánh thông tin. So với một số quốc gia trong khu vực cho
thấy, số lượng các công ty Fintech tại Việt Nam còn khá ít; tại Indonesia, đã có sự tăng
trưởng nhanh chóng về sản phẩm dịch vụ và các công ty Fintech trong những năm gần
đây, theo Hiệp hội Fintech Indonesia xác định có khoảng 120 công ty Fintech trong nước
vào cuối 2016; tại Singapore, tính đến tháng 11/2016 có hơn 300 công ty khởi nghiệp
206
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Fintech, hơn 20 ngân hàng toàn cầu, các công ty bảo hiểm đã thiết lập các văn phòng và
trung tâm nghiên cứu đổi mới ở Singapore (Clipford Chance, 2017).
Bảng 1: Các công ty Fintech tại Việt Nam
STT Lĩnh vực hoạt động Công ty
Số
công ty
Tỷ lệ
1 Thanh toán (di động)
2C2P, VTPay, OnePay, VTCPay, BankPlus, VinaPay, VNPay,
Senpay, NganLuong, ZingPay, BaoKim, 123Pay, WebMoney,
Cyberpay, 1Pay, SohaPay, Moca, Vimo, Payoo, OnOnPay,
MoMo, FPT
22 48%
2 Gọi vốn (Crowdfunding) FundStart, Comicola, Betado, Firststep 4 8%
3 Blockchain Bitcoin Vietnam, VBTC Bitcoin, Copyrobo, Cardano Labo 4 8%
4 Quản lý tài chính cá nhân Mobivi, Money Lover, Timo, kiu 4 8%
5 Chuyển tiền Matchmove, Cash2vn, Nodestr, Remittance Hub 4 8%
6 Cho vay Loanvi, Tima, TrustCircle 3 6%
7 Quản lý POS Hottab, SoftPay, ibox 3 6%
8 Quản lý dữ liệu CircleBii, TrustingSocial 2 4%
9 So sánh thông tin BankGo, gobear 2 4%
Tổng cộng 48 100%
Nguồn: Fintech News (2017), Fintech in Vietnam Update and new Infographic 2017
Chính sách phát triển Fintech ở Việt Nam cũng được thực hiện nhằm hỗ trợ cho sự
phát triển thông qua nhiều chương trình, đề án liên quan đến phát triển Fintech; trong
đó, tập trung vào hoàn thiện, tạo lập khung khổ hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận
lợi để phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, các mô
hình kinh doanh, hệ thống thanh toán điện tử; xây dựng cổng thông tin khởi nghiệp; hỗ
trợ kinh phí, đào tạo,... Bên cạnh đó, việc thành lập Ban Chỉ đạo về lĩnh vực Công nghệ
tài chính của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thể hiện chính sách tập trung cho các
giải pháp nhằm hoàn thiện hệ sinh thái, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho Fintech ở
Việt Nam phát triển. Đây là các Chương trình, Đề án rất quan trọng đối với phát triển
Fintech, các chính sách đã tổng quan về những kết quả đạt được trong phát triển dịch vụ
ngân hàng theo xu thế nâng cao trình độ hiện đại, tiện ích và hiệu quả.
Theo Thời báo Ngân hàng (2017), trong những năm qua, NHNN chủ động trong
việc tiếp cận vấn đề và đối thoại với các doanh nghiệp trong lĩnh vực Fintech, tạo điều
207
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
kiện cho việc gia nhập thị trường. Từ năm 2008, NHNN đã nghiên cứu và cho phép
nhiều công ty không phải là ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán. Đến nay, sau khi
thiết lập khuôn khổ pháp lý tương đối rõ ràng, NHNN đã cấp phép hoạt động chính thức
cho các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Lĩnh vực Fintech là lĩnh vực
đầy tiềm năng tại Việt Nam xét theo quy mô dân số và lợi thế so sánh về nguồn nhân
lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Khung khổ pháp lý quản lý của Việt Nam về cơ
bản mới chỉ đáp ứng được một phần cho lĩnh vực công nghệ tài chính trong thanh toán,
khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ cho các lĩnh vực tài chính khác. Hoạt
động của các công ty Fintech tại Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn đầu, chưa đa dạng
hóa sản phẩm và dịch vụ, phần lớn là hoạt động thanh toán. Một trong những nguyên
nhân là số lượng người sử dụng các dịch vụ ngân hàng chưa cao, chủ yếu là rút tiền từ tài
khoản và ngân hàng vẫn chiếm phần lớn thị phần các dịch vụ tài chính. Bên cạnh đó, hệ
sinh thái Fintech tại Việt Nam chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa các chủ thể bao gồm cơ
quan quản lý, các định chế tài chính, công ty Fintech và các doanh nghiệp khởi nghiệp,
quỹ đầu tư, hạ tầng tài chính, viễn thông,... Hoạt động kết nối để cung ứng sản phẩm
dịch vụ cho người tiêu dùng chủ yếu là hợp tác giữa công ty Fintech và ngân hàng.
2. ảnh hưởng Của FinTeCh đến ngành ngân hàng Của việT nam
Dựa trên nền tảng công nghệ, các doanh nghiệp Fintech tham gia cạnh tranh vào
hầu hết các dịch vụ hiện có của ngân hàng, từ hoạt động tín dụng, huy động vốn, thanh
toán, và quản lý đầu tư. Theo khảo sát mới nhất của BCBS, khoảng 41% các doanh
nghiệp Fintech cung cấp các dịch vụ liên quan đến thanh toán, lưu ký bảo lãnh; 27% các
dịch vụ bổ trợ trong dịch vụ tài chính; 18% trong cho vay, tiền gửi và huy động vốn; 9%
là dịch vụ quản lý đầu tư và 5% là các dịch vụ khác.
Các ngân hàng, luôn đương đầu với nhiều rủi ro như thanh khoản, tín dụng, hoạt
động... thì hiện nay và sắp tới còn phải ứng phó với nhiều rủi ro khác từ cạnh tranh với
Fintech. Tác động của công nghệ đối với ngành ngân hàng diễn ra ngày càng nhanh vì
khả năng tiếp cận công nghệ nhanh của công chúng. Nếu như trước đây, công nghệ ATM
cần hơn hai thập niên, thì Internet/Mobile Banking phổ cập nhanh hơn nhiều. Các rủi
ro do sự phát triển và áp dụng công nghệ vào lĩnh vực ngân hàng tác động lên không chỉ
khách hàng mà cả hệ thống ngân hàng. Các khách hàng có thể bị đe dọa về quyền riêng
tư, an toàn của thông tin, gián đoạn dịch vụ ngân hàng, hay các cách thức tiếp thị không
phù hợp. Theo ước tính của nhiều chuyên gia, khoảng 10 - 40% doanh thu và 20 - 60% lợi
nhuận của ngân hàng bán lẻ bị Fintech đe dọa trong vòng 10 năm tới. Một số liệu khác
còn cho thấy khoảng một phần ba các khoản vay trên thị trường phi chính thức (shadow
208
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
banking) do các doanh nghiệp Fintech nắm giữ. Nhưng cũng có nhiều chuyên gia lạc
quan khi cho rằng các ngân hàng đủ khả năng thâu tóm các đối thủ này, từ đó nâng cao
năng suất và hiệu quả của ngân hàng. Ngành Ngân hàng có thể bị đe dọa về lợi nhuận, gia
tăng mức độ các nhóm rủi ro khác trong kinh doanh, không đáp ứng được hay vi phạm
các yêu cầu của các cơ quan quản lý như bảo mật thông tin khách hàng, chống rửa tiền,
tài trợ hoạt động khủng bố...
Như vậy, ảnh hưởng của Fintech đến ngành Ngân hàng sẽ phụ thuộc vào sự phát
triển của công nghệ và mức độ phát triển của thị trường. Cụ thể:
Thứ nhất, các ngân hàng hiện tại tự đổi mới thông qua hiện đại hóa và số hóa. Trong
trường hợp này, với lợi thế về hiểu biết thị trường, tiềm lực tài chính, các ngân hàng
ứng dụng các công nghệ mới hoặc phát triển các công nghệ hiện có như Điện toán đám
mây, Dữ liệu lớn (Big Data), Trí tuệ nhân tạo (AI), sổ cái phân tán (DLT) trên nền tảng
blockchain. Ngoài ra, các công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp phi ngân
hàng cũng có thể được các ngân hàng truyền thống sử dụng, như sinh trắc học, chatbot,
thanh toán di động, tư vấn tự động.
Thứ hai, ngân hàng thế hệ mới (neo-bank) thay thế ngân hàng truyền thống. Trong
tình huống này, các ngân hàng truyền thống không thể tồn tại trước làn sóng công nghệ
đột phá và bị thay thế bởi các ngân hàng thế hệ mới hay các ngân hàng của các công ty
công nghệ lớn. Vũ khí quan trọng của các neo-bank là hiệu quả trên chi phí và sự sáng
tạo. Các ngân hàng này vẫn tuân thủ quy định trong việc cấp giấy phép hiện hành và giao
dịch trực tiếp với khách hàng. Một số neo-bank đang nổi lên trên thị trường như Atom,
Monzo (Anh), Bunq (Hà Lan), WeBank (Trung Quốc), N26 (Đức), Simple, Varo Money
(Mỹ), Fidor (Anh và Đức), Wanap (Argentina).
Thứ ba, ngân hàng kết hợp cùng doanh nghiệp Fintech cung cấp dịch vụ tài chính.
Theo đó, các ngân hàng truyền thống hợp tác cùng các doanh nghiệp Fintech dưới nhiều
hình thức khác nhau để cùng chia sẻ việc cung cấp các dịch vụ. Minh chứng cho mô hình
này là việc gia tăng sử dụng các APIs mở (open API), các dịch vụ thanh toán di động
(Apple Pay, Samsung Pay, Android Pay) và DLT giữa các ngân hàng.
Thứ tư, ngân hàng trở thành bên thứ ba cung cấp dịch vụ, nhường dịch vụ khách
hàng trực tiếp cho cho các doanh nghiệp Fintech hay Bigtech. Trong tình huống này, các
ngân hàng truyền thống được sử dụng do đã có giấy phép trong các dịch vụ ngân hàng
cơ bản. Các doanh nghiệp Fintech thông qua các giao diện tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng của mình, cung cấp nhiều dịch vụ từ nhiều ngân hàng khác nhau.
209
Kỷ yếu HộI THảO KHOA HọC QuốC GIA
"CÁCH MạNG CÔNG NGHIệP 4.0 VÀ NHữNG ĐổI MớI TRONG LĨNH VựC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG"
Thứ năm, ngân hàng không còn phù hợp và biến mất, vì khách hàng tương tác trực
tiếp với nhà cung cấp dịch vụ tài chính cá nhân là các Fintech. Khả năng này dù ít xảy ra,
nhưng đã có những dấu hiệu như sự xuất hiện của các nền tảng cho vay giữa các cá nhân
(P2P lending) cũng như các loại tiền mã hóa (cryptocurrencies).
Tài liệu Tham Khảo
1. Accenture (2016), Fintech and the Volving Landscape: Landing Points for the
Industry.
2. Business Insider (2016), The Fintech Feport 2016: Financial Industry Trends and
Investment.
3. BI Intelligence Report (2016), The Fintech Ecosystem Report: The Emerging
Technologies and Firms Driving Change in Financial Services and How Legacy
Players Can Navigate the Disruption.
4. Capgemini (2017), World Fintech Report 2017.
5. CIO (2016), The Fintech Effect and the Disruption of Financial Services.
6. International Trade Administration (2016), 2016 Top Markets Report: Financial
Technology.
7. Kirby, E. and Worner, S. (2014), Crowd-funding, an Infant Industry Growing Fast,
IOSCO Research Department Staff Working Paper.
8. PwC (2016), Blurred Lines: How Fintech is Shaping Financial Services - Global
Fintech Report.
9. UNEP (2016), Fintech and Sustainable Development: Assessing the Implications.
Ngày gửi bài: 17/5/2018
Ngày gửi lại bài: 27/5/2018
Ngày duyệt đăng: 02/06/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xu_huong_phat_trien_fintech_tren_the_gioi_va_anh_huong_cua_n.pdf