Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế

Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, việc lập báo cáo tài chính (BCTC) theo các Chuẩn mực

báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày càng nhận được sự ủng hộ của các nước trên thế

giới. Tại Việt Nam, yêu cầu lập BCTC theo IFRS ngày càng trở lên phổ biến do yêu cầu về

tính minh bạch thông tin tài chính, lành mạnh hóa các quan hệ bên trong cũng như trong

lộ trình hội nhập, tham gia vào thị trường vốn quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ban hành 26

Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS), các thông tư hướng dẫn áp dụng chuẩn mực và một

số quy định chưa có hướng dẫn trong các chuẩn mực, và gần đây nhất là việc ban hành

Thông tư 200/2014/TT-BTC, ngày 22/12/2014, đã đánh dấu những bước chuyển biến đáng

kể, hạn chế những điểm khác biệt trước đây so với kế toán quốc tế, đồng thời tạo nhiều

thuận lợi cho công tác kế toán trong doanh nghiệp (DN). Bài báo tập trung nghiên cứu

những điểm mới trong chính sách kế toán của Việt Nam hiện nay, cụ thể là Thông tư

200/2014/TT-BTC, so sánh với kế toán quốc tế và đề xuất một số thay đổi cần thiết trong

thời gian tới, để tiến dần đến việc áp dụng cơ chế báo cáo dựa trên chuẩn IFRS.

pdf5 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xu hướng chuyển đổi báo cáo tài chính Việt Nam theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 85 XU HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI BÁO CÁO TÀI CHÍNH VIỆT NAM THEO CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ #Phạm Thị Ngọc Ly Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, việc lập báo cáo tài chính (BCTC) theo các Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày càng nhận được sự ủng hộ của các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, yêu cầu lập BCTC theo IFRS ngày càng trở lên phổ biến do yêu cầu về tính minh bạch thông tin tài chính, lành mạnh hóa các quan hệ bên trong cũng như trong lộ trình hội nhập, tham gia vào thị trường vốn quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã ban hành 26 Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS), các thông tư hướng dẫn áp dụng chuẩn mực và một số quy định chưa có hướng dẫn trong các chuẩn mực, và gần đây nhất là việc ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC, ngày 22/12/2014, đã đánh dấu những bước chuyển biến đáng kể, hạn chế những điểm khác biệt trước đây so với kế toán quốc tế, đồng thời tạo nhiều thuận lợi cho công tác kế toán trong doanh nghiệp (DN). Bài báo tập trung nghiên cứu những điểm mới trong chính sách kế toán của Việt Nam hiện nay, cụ thể là Thông tư 200/2014/TT-BTC, so sánh với kế toán quốc tế và đề xuất một số thay đổi cần thiết trong thời gian tới, để tiến dần đến việc áp dụng cơ chế báo cáo dựa trên chuẩn IFRS. Từ khóa: DN, Báo cáo tài chính, Chuẩn mực kế toán Việt Nam, Báo cáo tài chính quốc tế, Chuẩn mực kế toán quốc tế. Chế độ kế toán DN (DN) ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC sau khi trải qua 8 năm thực hiện đã bộc lộ nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế cũng như thực tiễn tại Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế trong giai đoạn mới, thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập quốc tế, ngày 22/12/2014 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 200/2014/TT-BTC, hướng dẫn Chế độ kế toán DN thay thế cho Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, ngày 20/03/2006, của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Thông tư 244/2009/TT-BTC ngày 31/12/ 2009, đã đưa chế độ kế toán và lập BCTC của Việt Nam tiến lại gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế trong IAS và IFRS. Có thể thấy rằng, việc áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế trong lập BCTC giúp nâng cao tính công khai, minh bạch trong BCTC của DN, đặc biệt là các DN niêm yết, đồng thời còn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Một số điểm đổi mới trong Thông tư 200/2014/TT-BTC so với trước đây Về sổ kế toán Các DN không bắt buộc phải áp dụng mẫu sổ kế toán như trước mà được tự thiết kế, xây dựng riêng phù hợp với yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động của mình. DN nào không tự xây dựng được thì vận dụng mẫu sổ theo Quyết định 15; Không bắt buộc áp dụng 4 hình thức Nhật ký chung, Nhật ký sổ Cái, Nhật ký chứng từ và Chứng từ ghi sổ. Các DN áp dụng theo hình thức của phần mềm kế toán mà DN đang sử dụng. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 86 Về chứng từ Tất cả các loại chứng từ đều mang tính hướng dẫn. DN được tự thiết kế biểu mẫu riêng phù hợp với yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động của mình. DN nào không tự xây dựng được thì vận dụng mẫu sổ theo Quyết định 15. Về tài khoản kế toán - Không phân biệt ngắn hạn và dài hạn trên tài khoản mà chỉ phân biệt ngắn hạn, dài hạn trên Bảng cân đối kế toán. - Thiết kế lại toàn bộ các tài khoản phản ánh đầu tư tài chính theo thông lệ quốc tế (Chứng khoán kinh doanh, đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn, sẵn sàng để bán). Về BCTC - Bổ sung, sửa đổi nhiều chỉ tiêu của Bảng cân đối kế toán. Bổ sung chỉ tiêu Lãi suy giảm trên cổ phiếu của Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Bổ sung sửa đổi một số chỉ tiêu của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. - Đặc biệt nhất trong hệ thống BCTC là phần thuyết minh BCTC hầu như mới toàn bộ, xây dựng trên nguyên tắc minh bạch, công khai, linh hoạt. Yêu cầu thuyết minh chi tiết về thông tin các bên liên quan đối với nhiều chỉ tiêu. để góp phần chống chuyển giá. - Lần đầu tiên xây dựng nguyên tắc kế toán và BCTC cho DN không đáp ứng giả định hoạt động liên tục theo hướng tái phân loại toàn bộ tài sản dài hạn thành ngắn hạn. Đánh giá lại toàn bộ nợ phải trả theo giá trị có thể thu hồi. - Đổi mới trong Thông tư 202/2014/TT-BTC Hướng dẫn Báo cáo tài chính hợp nhất. - Kế toán không vì mục đích thuế mà vì mục đích chung, đảm bảo tính minh bạch rõ ràng cho tất cả những người sử dụng BCTC. Việc ghi nhận doanh thu và chi phí kế toán không phụ thuộc vào hóa đơn mà phụ thuộc vào các điều kiện của CMKT có cho phép hay không. - Tách biệt kỹ thuật ghi chép kế toán và trình bày BCTC. Ví dụ, thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp hay khấu trừ, đều không ảnh hưởng đến bản chất là thuế gián thu. Vì vậy, trên sổ kế toán có thể tách ngay thuế tại thời điểm ghi nhận doanh thu hoặc định kỳ mới điều chỉnh trên sổ kế toán nhưng trong mọi trường hợp, chỉ tiêu doanh thu bán hàng cung cấp dịch vụ trên BCKQHĐKD đều không bao gồm thuế gián thu. Một số khác biệt cơ bản về việc ghi nhận các khoản mục trên BCTC giữa VAS và IAS/IFRS Khoản mục IAS/IFRS VAS Tiền Ghi nhận ngay khi phát sinh thu chi tiền, khi phê duyệt séc. DN không phụ thuộc vào ngân hàng. Cuối kỳ báo cáo, kế toán phải lập bảng điều hòa, đối chiếu giữa số dư tiền theo sổ kế toán của công ty vào theo số dư của ngân hàng. Ghi nhận căn cứ vào giấy báo Nợ, báo Có của ngân hàng. DN phụ thuộc vào việc ghi chép của ngân hàng nên có thể cập nhật chậm trễ biến động của tài khoản tiền gửi ngân hàng vào ngày lập BCTC. Các khoản phải thu Tách biệt giữa các khoản phải thu kinh doanh, thương mại (từ bán hàng, hàng hóa, dịch vụ) và các khoản phải thu do bán TSCĐ hay các khoản phải thu khác như bán cổ phiếu. Không có sự tách biệt giữa các khoản phải thu kinh doanh (do bán hàng hóa) với các khoản phải thu từ việc bán tài sản cố định. Giá trị hàng tồn kho hình thành từ khâu sản xuất Chi phí nhân công trực tiếp tính vào giá trị hàng tồn kho chỉ bao gồm tiền lương, tiền công của công nhân trực tiếp và các khoản tiền gắn liền với giờ lao động trực tiếp có thể như tiền cơm giữa ca, tiền ngoài giờ hệ số 1. Nó không bao gồm các khoản tiền đi theo người lao động trực tiếp như chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, công Chi phí nhân công trực tiếp tính vào giá trị hàng tồn kho hình thành từ khâu sản xuất: Là tiền lương và tất cả các chi phí cho người lao động trực tiếp sản xuất. Nó bao gồm cả các khoản ngoài lương như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chi phí công đoàn (ngoại trừ trong DN xây dựng). n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 87 đoàn phí, đồng phục, bảo hộ lao động. Tiền ngoài giờ hệ số chênh lệch lớn hơn 1 được tính là chi phí lao động gián tiếp. Giá trị tài sản sinh học và sản phẩm nông nghiệp Xây dựng chuẩn mực riêng IAS 41- Nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp và tài sản sinh vật được ghi theo giá trị hợp lý trừ chi phí bán hàng ước tính. Trừ khi, giá trị hợp lý không xác định được một cách đáng tin cậy, sẽ sử dụng phương pháp giá gốc. Giá trị các sản phẩm nông nghiệp được ghi nhận giống như tất cả các tài sản khác của DN là đều theo giá gốc hay chi phí ban đầu. Đồng thời không có chuẩn mực riêng về kế toán nông nghiệp. Cổ phiếu thương mại ngắn hạn (nhà đầu tư nắm giữ dưới 20% quyền biểu quyết) Ban đầu ghi khoản đầu tư theo giá phí, cuối kỳ ghi giá trị đầu tư theo giá thị trường. Chênh lệch giữa giá thị trường và giá ghi sổ trước đó sẽ ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện. Ghi nhận theo giá gốc, cuối năm nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá gốc, lập khoản dự phòng ghi vào chi phí tài chính. Sang năm tiếp theo nếu giá cổ phiếu lên lại, điều chỉnh khoản dự phòng, ghi vào thu nhập tài chính. Các khoản đầu tư dài hạn Đầu tư ban đầu được ghi theo giá vốn, cuối kỳ điều chỉnh khoản đầu tư về giá thị trường và ghi tăng nếu giá cao hơn so với giá cũ hoặc giảm vốn chủ sở hữu trên Bảng cân đối kế toán nhưng không trình bày trên báo cáo kết quả kinh doanh. Ghi đầu tư dài hạn và ngắn hạn giống nhau. Ban đầu ghi theo giá vốn, cuối kỳ kế toán điều chỉnh nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá vốn, kế toán ghi vào chi phí tài chính. Nếu giá cổ phiểu lên cao hơn giá mua, kế toán không ghi điều chỉnh. Bảng cân đối kế toán vẫn ghi khoản đầu tư theo giá vốn, không ghi lãi hay tăng vốn chủ sở hữu. Các khoản lãi lỗ chưa thực hiện từ các khoản đầu tư Các chứng khóan thương mại, cuối kỳ kế toán tạm thời (quý) và năm ghi giá trị đầu tư theo giá thị trường. Chênh lệch giữa giá trị thị trường và giá trị ghi sổ trước đó, sẽ ghi vào lãi hoặc lỗ chưa thực hiện. Lưu ý rằng, đối với các khoản đầu tư chứng khóan sẵn sàng để bán, khoản chênh lệch giữa giá thị trường và giá vốn hay giá trị sổ đựơc ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện từ các khoản đầu tư nhưng báo cáo trong phần vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế tóan và báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu, không nằm trong báo cáo kết quả kinh doanh. Cuối năm, giá thị trường xuống thấp hơn giá vốn, kế toán phải lập dự phòng và ghi nhận vào chi phí hoạt động tài chính (được ghi nhận trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của DN). Còn đối với các báo cáo quý là không bắt buộc, điều này làm cho báo cáo tài chính quý không phản ánh một cách hợp lý và trung thực tình hình tài chính của DN. Tài sản cố định hữu hình - Xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu Cho phép hai cách kế toán ghi nhận tài sản theo giá gốc hoặc đánh giá lại theo giá trị hợp lý, đồng thời quy định việc đánh giá lại tài sản chỉ được sử dụng nếu giá trị hợp lý của tài sản có thể đo lường được một cách đáng tin cậy. Chỉ cho phép ghi nhận và báo cáo theo giá gốc. Tài sản cố định hữu hình - Kế toán các khoản cho tặng của chính phủ Yêu cầu các khoản cho tặng được ghi nhận theo phương pháp thu nhập, các khoản cho tặng được ghi nhận như một khoản thu nhập trong kỳ liên quan để phù hợp với các chi phí liên quan mà chúng được nhận để bù đắp. Trường hợp DN được tài trợ, biếu tặng TSCĐ hữu hình đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, kế toán ghi vào thu nhập khác theo giá trị ước tính (tính hết vào thu nhập một kỳ kế toán). Tài sản vô hình Đất hay quyền sử dụng đất là tài sản hữu hình chứ không phải là tài sản vô hình. Đất hay quyền sử dụng đất được xếp loại là tài sản cố định vô hình. Về việc ghi giảm giá trị tài sản Có một nguyên tắc đã được thiết lập là tất cả các tài sản sẽ không được ghi nhận và báo cáo ở giá trị cao hơn giá trị có thể thu hồi. Một thực thể cần phải ghi giảm giá trị ghi sổ của một tài sản về bằng giá trị có thể thu hồi được nếu giá trị ghi sổ của tải sản không thể thu hồi hoàn toàn. Không ghi nhận việc giảm giá do hư hỏng, lạc hậu kỹ thuật cho các tài sản dài hạn. Ví dụ nếu một tài sản cố định bị hư hỏng hay bị lạc hậu về kỹ thuật không sử dụng được thì không ghi nhận và không báo cáo gì. Tài sản đó vẫn được ghi nhận trong BCTC cho đến khi thanh lý, nhượng bán, Các khoản phải trả thương mại Các khoản phải trả thương mại do mua chịu hàng hóa, nguyên liệu phải được tách ra khỏi các khoản phải trả từ việc mua bán tài sản dài hạn. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh phải được tách biệt với dòng tiền từ các hoạt động đầu tư (như mua sắm tài sản cố định). Các khoản phải trả thương mại không tác biệt với các khoản phải trả từ việc mua bán các tài sản dài hạn (hoạt động đầu tư). Lãi từ hoạt động kinh doanh Lãi từ hoạt động kinh doanh là các khoản lãi từ các hoạt động kinh doanh chính của DN nó không bao gồm những khoản thu nhập tài chính và chi phí tài chính. Khoản mục “Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh” bao gồm cả thu nhập và chi phí tài chính (cả chi phí lãi vay). Doanh thu tài chính và chi phí tài chính Không đưa ra khái niệm doanh thu tài chính và chi phí tài chính mà nó được ghi rõ ràng từng mục theo đúng bản chất của nó để mang tính quản trị cao hơn. Ví dụ, thu nhập lãi tiền gửi, thu nhập từ cổ tức của công ty liên kết, liên doanh; Chi phí lãi tiền vay, lãi lỗ do chênh lệch tỷ giá ngoại hối. Khái niệm doanh thu hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính có nghĩa rất rộng bao gồm nhiều hoạt động như các khoản thu tiền lãi cho vay, tiền cổ tức, lợi nhuận được chia, thậm chí cả tiền bản quyền, chi phí vay tiền, chi phí liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính, lỗ chuyển nhượng chứng khoán n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 88 Kết luận và kiến nghị Hiện nay, với sự gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như phục vụ cho mục tiêu kêu gọi vốn đầu tư, các DN Việt Nam cần có một bản BCTC lập theo IFRS đầy đủ, minh bạch, chính xác và có độ tin cậy cao nhằm tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh,.... Mặt khác, Báo cáo Việt Nam 2035 được công bố mới đây đưa ra đề xuất các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam cần thống nhất với IFRS, nhằm phát triển thị trường vốn theo chiều sâu và thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam 2035, các chính sách của ASEAN cũng như theo kịp đà phát triển của nền kinh tế thành công trong khu vực và trên thế giới. Trên thực tế, Việt Nam đã và đang có những bước đi tích cực, để sẵn sàng tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế, công cụ kế toán và kiểm toán của Việt Nam đã được cải cách và hoàn thiện phù hợp, trong đó đặc biệt là việc áp dụng Chuẩn mực quốc tế về kế toán, kiểm toán đã được luật hóa. Mặt khác, “Chiến lược phát triển kế toán - kiểm toán Việt Nam đến 2020, tầm nhìn 2030” đã khẳng định, Việt Nam quyết tâm áp dụng IFRS. Luật Kế toán 2015 có hiệu lực từ 1/1/2017, đã bổ sung “Nguyên tắc giá trị hợp lý”. Đây là những bước chuẩn bị chủ động, cần thiết, để tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS tại Việt Nam bởi như so sánh ở trên thì điểm khác biệt lớn là VAS hạch toán theo nguyên tắc giá gốc, còn IFRS theo nguyên tắc giá thị trường (giá trị hợp lý). Ngoài ra, để Chuẩn mực Kế toán Việt Nam thống nhất với IFRS, cần lưu ý một số thay đổi sau: Một là, thay đổi căn cứ hạch toán trên tài khoản tiền gửi ngân hàng: Theo quy định hiện nay, căn cứ để hạch toán trên Tài khoản 112 “Tiền gửi Ngân hàng” là các giấy báo Có, báo Nợ hoặc bản sao kê của Ngân hàng kèm theo các chứng từ gốc (uỷ nhiệm chi, séc chuyển khoản,)”, hơn nữa cuối tháng khi phát sinh các khoản chênh lệch chưa xác định được nguyên nhân thì kế toán ghi sổ theo số liệu của ngân hàng sau đó, tiếp tục xác định nguyên nhân để điều chỉnh số liệu ghi sổ. Việc này sẽ làm kế toán DN phụ thuộc hoàn toàn vào việc ghi chép của ngân hàng và có thể cập nhật chậm trễ biến động của tài khoản tiền gửi ngân hàng vào ngày lập BCTC làm cho số dư khoản mục tiền trên BCTC, không được phản ánh đúng thực tế. Vì vậy, để chủ động trong quá trình hạch toán tài khoản tiền gửi ngân hàng của DN nên cho phép kế toán ghi nhận sự biến động của tiền gửi ngân hàng ngay khi phê duyệt séc, ủy nhiệm chi,. và định kỳ đối chiếu số liệu với ngân hàng để kịp thời điều chỉnh nếu phát sinh chênh lệch. Hai là, tách biệt các khoản phải thu, phải trả theo nội dung nghiệp vụ: Hiện nay, kế toán sử dụng duy nhất tài khoản “Phải thu của khách hàng”, “Phải trả cho người bán” để phản ánh các khoản nợ và tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu, phải trả của DN với khách hàng và nhà cung cấp về tiền mua bán sản phẩm, hàng hóa, kể cả bất động sản đầu tư, TSCĐ, các khoản đầu tư tài chính, cung cấp dịch vụ,. Như vậy, số liệu trên báo cáo tài chính không thể hiện rõ khoản vốn mà DN để khách hàng tạm thời chiếm dụng thuộc hoạt động kinh doanh chính hay hoạt động bất thường và ngược lại là đối với DN và nhà cung cấp, điều này n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 89 có thể dẫn tới nhìn nhận sai lệch từ nhà đầu tư. Vì vậy, nên có sự tách biệt giữa các khoản phải thu, phải trả từ hoạt động kinh doanh, thương mại (mua bán sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ) và các khoản phải thu, phải trả do mua bán TSCĐ hay mua bán cổ phiếu, Ba là, xây dựng và ban hành chuẩn mực kế toán nông nghiệp: Sản phẩm nông nghiệp và tài sản sinh vật đa dạng và phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn chưa có chuẩn mực riêng hướng dẫn cụ thể về kế toán trong lĩnh vực này. Hiện nay, sản phẩm trong lĩnh vực này được ghi nhận theo giá gốc hay chi phí ban đầu, trong khi giá trị thường xuyên biến động. Vì vậy, cần có chuẩn mực kế toán hướng dẫn cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng và trong từng trường hợp ghi nhận theo giá gốc hay các loại giá khác. Bốn là, điều chỉnh một số nội dung được ghi nhận vào thu nhập và chi phí tài chính, đồng thời không tính khoản mục này vào phần lãi từ hoạt động kinh doanh của DN: Theo IFRS, lãi từ hoạt động kinh doanh là các khoản lãi từ các hoạt động kinh doanh chính của DN nó không bao gồm những khoản thu nhập tài chính và chi phí tài chính. Hơn nữa, có một số nội dung liên quan đến các khoản đầu tư được ghi nhận vào doanh thu hoặc chi phí tài chính là chưa hợp lý. Ví dụ, đối với cổ phiếu thương mại ngắn hạn, cuối năm nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá gốc, lập khoản dự phòng ghi vào chi phí tài chính, sang năm tiếp theo nếu giá cổ phiếu lên lại, điều chỉnh khoản dự phòng, ghi vào thu nhập tài chính như vậy ảnh hưởng trực tiếp đến độ chính xác của thông tin trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Trong khi đó, theo IFRS chênh lệch giữa giá thị trường và giá ghi sổ trước đó sẽ ghi vào lãi lỗ chưa thực hiện và được báo cáo trong phần vốn chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán, không nằm trong báo cáo kết quả kinh doanh. Năm là, bổ sung thông tin trên thuyết minh báo cáo tài chính về ghi nhận giá trị tài sản cố định: Thông thường, tài sản cố định của DN chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản. Vì vậy, để phản ánh chính xác giá trị tài sản cố định của DN tại thời điểm báo cáo, ngoài việc phản ánh trên bảng cân đối kế toán thì trên thuyết minh báo cáo tài chính cũng cần cụ thể giá trị các tài sản cố định hữu hình hư hỏng hoặc không sử dụng lâu dài, bởi nếu tài sản này chưa được bán hay thanh lý nó vẫn được báo cáo theo giá trị sổ sách, mặc dù giá trị sổ sách đó không còn phản ánh đúng giá trị thu hồi của tài sản. Sáu là, liên quan đến lộ trình triển khai IFRS: Để việc triển khai IFRS đảm bảo tính khả thi, cơ quan quản lý nên đưa ra hệ thống chính sách theo hướng ban đầu áp dụng đối với các DN quy mô lớn thường xuyên có quan hệ sản xuất, kinh doanh với các đối tác quốc tế, các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Khi những lợi ích của việc triển khai IFRS được kiểm chứng, đồng thời các yếu tố thuận lợi cho triển khai rộng rãi IFRS chín muồi, thì sẽ tiến tới áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các DN trong nền kinh tế.‡ -------------------------- Tài liệu tham khảo [1]. Bộ Tài chính. (2015). Chế độ kế toán DN. NXB Tài chính [2]. Deloit. (2014). Retrieved from Iasplus website: [3]. Nam, T.X. (2012). Retrieved from So sánh VAS và IFRS website: [4] AN, N. V. (2014). ABC. Retrieved from www.udn.vn: www.udn.vn/abc [5] Chung. (2016). Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí tài chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfxu_huong_chuyen_doi_bao_cao_tai_chinh_viet_nam_theo_chuan_mu.pdf