Sự tích tụ các phần tử cholesterol bên trong động mạch cảnh hình
thành các mảng xơ vữa, làm hẹp dần lòng mạch máu và cuối cùng dẫn đến
tắc. Đây là nguyên nhân chính gây thiểu năng tuần hoàn nãothể đặc biệt và
rối loạn nửa người.
Sự hình thành các mảng xơ vữa do tích tụ cholesterol trong động
mạch cảnh thường tiến triển trong thời gian dài, có thể tới hàng chục năm.
Nó xảy ra ở mọi độ tuổi, song phổ biến nhất là ở những người ngoài 45.
Nhóm có nguy cơ cao là những người hút thuốc lá, bị tăng huyết áp,
tăng cholesterol máu, tiểu đường hoặc trong gia đình có tiền sử bệnh tim
mạch.
Tuổi càng cao, các mảng xơ vữa động mạch càng nhiều, độ hẹp càng
tăng và rất dễ mắc nhiều biến chứng.
Điều đáng lo ngại là trên bề mặt của những mảng xơ vữa hay hình
thành những cục máu đông, gọi là huyết khối thành mạch.Chúng có thể
vỡ ra thành nhiều mảng, di chuyển từ cổ lên não hoặc đọng lại, lớn dần lên
gây thiểu năng tuần hoàn não, tắc mạch, tai biến mạch máu não tạm thời
hoặc nhồi máu não.
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1347 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Xơ vữa động mạch cảnh -Nguyên nhân gây liệt nửa người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xơ vữa động mạch cảnh - nguyên
nhân gây liệt nửa người
Sự tích tụ các phần tử cholesterol bên trong động mạch cảnh hình
thành các mảng xơ vữa, làm hẹp dần lòng mạch máu và cuối cùng dẫn đến
tắc. Đây là nguyên nhân chính gây thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt và
rối loạn nửa người.
Sự hình thành các mảng xơ vữa do tích tụ cholesterol trong động
mạch cảnh thường tiến triển trong thời gian dài, có thể tới hàng chục năm.
Nó xảy ra ở mọi độ tuổi, song phổ biến nhất là ở những người ngoài 45.
Nhóm có nguy cơ cao là những người hút thuốc lá, bị tăng huyết áp,
tăng cholesterol máu, tiểu đường hoặc trong gia đình có tiền sử bệnh tim
mạch.
Tuổi càng cao, các mảng xơ vữa động mạch càng nhiều, độ hẹp càng
tăng và rất dễ mắc nhiều biến chứng.
Điều đáng lo ngại là trên bề mặt của những mảng xơ vữa hay hình
thành những cục máu đông, gọi là huyết khối thành mạch. Chúng có thể
vỡ ra thành nhiều mảng, di chuyển từ cổ lên não hoặc đọng lại, lớn dần lên
gây thiểu năng tuần hoàn não, tắc mạch, tai biến mạch máu não tạm thời
hoặc nhồi máu não.
Người ta nhận thấy khoảng 20-30% số trường hợp nhồi máu não là do
xơ vữa động mạch cảnh, và ngược lại, khoảng 1/3 bệnh nhân bị hẹp động
mạch cảnh từ 80% trở lên đều mắc tai biến mạch máu não. Trong khi đó, tỷ
lệ này ở người hẹp động mạch cảnh dưới 80% là không đến 1%.
Hẹp hoặc tắc các động mạch cảnh dẫn máu đi nuôi não có thể gây
thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt, biểu hiện thông thường nhất dưới
dạng tai biến mạch não với các triệu chứng như: mù tạm thời, rối loạn vận
động (đang cầm đồ vật đột ngột để rơi), rối loạn cảm giác một nửa người
(cảm giác tê cóng, tê chân tay, da dày cứng lên, kiến bò nhấp nháy trong da),
rối loạn ngôn ngữ (nói thiếu từ, nhầm tiếng, rối loạn phát ngôn) hoặc liệt nhẹ
nửa người. Sau khi đã bị nhồi máu não, các mảng xơ vữa ở động mạch cảnh
vẫn là nguyên nhân gây tiến triển bệnh.
Chẩn đoán hẹp động mạch cảnh
- Khám động mạch cảnh: sờ động mạch cảnh vùng cổ (động mạch
cảnh gốc), vùng sau amiđan (động mạch cảnh trong), phát hiện mảng rắn
dưới tay. Thông thường, bên bị xơ vữa sẽ có động mạch đập rất yếu.
- Siêu âm Doppler hệ động mạch cảnh: đây là phương pháp đơn giản
với độ an toàn và chính xác cao, phát hiện nhanh bệnh.
Tại một số quốc gia, siêu âm Doppler động mạch cảnh là xét nghiệm
thường quy đối với những người cao tuổi và những người mắc một hoặc các
bệnh sau: tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, nghiện thuốc lá, béo
phì, suy mạch vành hoặc thiểu năng tuần hoàn não.
- Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc: khi chụp, tiêm nhanh thuốc cản quang
tĩnh mạch, hình ảnh các lớp cắt xoắn ốc liên tục cho phép nghiên cứu tỉ mỉ
các tổn thương của các mạch máu.
Phương pháp này khắc phục được hầu hết các nhược điểm của siêu
âm Doppler, cho chất lượng chẩn đoán cao với các ưu điểm như: tái dựng
các lớp cắt ngang liên tục với độ dày tùy ý, mạch máu có độ cản quang cao,
có thể đo chính xác kích thước các động mạch, tái tạo dễ dàng hình nhiều
mặt phẳng, đánh giá lòng mạch, tình trạng huyết khối, mức độ tổn thương
của mảng xơ vữa...
- Chụp cộng hưởng từ: giúp chẩn đoán khu trú rõ hơn với độ chính
xác tương đương chụp mạch.
Điều trị
Đa số bệnh nhân được uống thuốc chống kết tụ tiểu cầu để phòng
ngừa và làm giảm biến chứng của mảng xơ vữa. Việc chỉ định mổ lấy mảng
xơ vữa cũng cho kết quả khả quan. Cho dù các mảng đóng bám có làm giảm
lưu lượng máu của dòng chảy trên 70% ở tuổi 80, việc điều trị vẫn có hiệu
quả.
Kể từ khi phẫu thuật viên người Anh Eastcott mổ khai thông thành
công một động mạch ở cổ (động mạch cảnh) bị hẹp khít vào năm 1954, vấn
đề thiếu máu não do xơ vữa động mạch cảnh được quan tâm đặc biệt.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ở thế kỷ 21, xơ vữa động mạch vẫn là
nguyên nhân gây tử vong cao. Việc phát hiện sớm mảng xơ vữa động mạch
cảnh từ khi chưa bị biến chứng là một yêu cầu cần thiết, góp phần làm giảm
tai biến mạch máu não, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và tuổi thọ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25_9.pdf