Xét nghiệm dấu ấn tim mạch

Medelab - Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính

mạng do tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim

Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính mạng do tắc nghẽn

đột ngột mạch máu nuôi tim.Khi cơ tim hoàn toàn không đượccung cấp máu

thì cơ vùng cơ tim âý sẽ hoại tử gây triệu chứng đau ngực dữ dội .Đồng thời

tim là nơi co bóp để duy trì lưu lượng máu đến các cơ quan khác, do đó khi

không còn cung cấp máu sẽ tạo ra mất ổn điện học và tim không duy trì nhịp

co bóp đều đặn và gây loạn nhịp trong những giờ đầu thường là rung thất và

ngưng tim sau đó người bệnh sẽ tử vong.Một số bệnh nhân nếu may mắn

thoát chết thường phải đối mặt với bệnh vẫn còn tiến triển hoặc biến chứng

suy tim .

pdf13 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xét nghiệm dấu ấn tim mạch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xét nghiệm dấu ấn tim mạch Medelab - Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính mạng do tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim Nhồi máu cơ tim là bệnh lý nguy hiểm đe doạ tính mạng do tắc nghẽn đột ngột mạch máu nuôi tim.Khi cơ tim hoàn toàn không được cung cấp máu thì cơ vùng cơ tim âý sẽ hoại tử gây triệu chứng đau ngực dữ dội .Đồng thời tim là nơi co bóp để duy trì lưu lượng máu đến các cơ quan khác, do đó khi không còn cung cấp máu sẽ tạo ra mất ổn điện học và tim không duy trì nhịp co bóp đều đặn và gây loạn nhịp trong những giờ đầu thường là rung thất và ngưng tim sau đó người bệnh sẽ tử vong.Một số bệnh nhân nếu may mắn thoát chết thường phải đối mặt với bệnh vẫn còn tiến triển hoặc biến chứng suy tim ... Các xét nghiệm dưới đây là những xét nghiệm hay gặp nhất để ghi nhận triệu chứng cũng như chẩn đoán sớm cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim. 1. Enzym creatinin kinase (CK toàn phần và CK-MB) * Ý nghĩa lâm sàng: Creatine kinase là một loại enzyme được tìm thấy trong tim, não, cơ xương, và các mô khác. Enzyme là protein có chức năng giúp đỡ tế bào thực hiện chức năng bình thường của chúng. Trong cơ bắp và tế bào tim, hầu hết năng lượng này được sử dụng khi các cơ bắp bị thu nhỏ lại. Có ba dạng khác nhau của CK trong cơ thể của bạn; chúng được gọi là isoenzymes: • CK-MM (tìm thấy trong cơ xương và tim), • CK-MB (chủ yếu trong tim), • CK-BB (chủ yếu trong não). Lượng nhỏ tìm thấy của CK trong máu được tiết ra bởi các bắp cơ. Còn CK trong não hầu như không bào giờ vào được máu. Mức CK trong máu tăng lên khi các tế bào cơ hay tim bị tổn thương. Bác sĩ có thể cho kiểm tra CK nếu bệnh nhân bị đau thắt ngực, hoặc có các dấu hiệu khác của một cơn đau tim. Trong 4-6 giờ đầu tiên sau một cơn đau tim, nồng độ của CK trong máu bắt đầu tăng. Nó đạt đến mức cao nhất trong 18-24 giờ và trở lại bình thường trong vòng 2-3 ngày. Nồng độ CK trong máu cũng tăng lên khi có tổn thương cơ xương. Nếu nồng độ CK tăng lên sau mỗi lần lấy mẫu chứng tỏ rằng cơ tim hay cơ bắp bình thường của cơ thể đã bị tổn thương. Đôi khi nó cũng tăng trong trường hợp vừa có vận động nặng. Nếu bác sĩ nghi ngờ có một cơn đau tim và nồng độ CK trong máu cao, bệnh nhân sẽ được chỉ định một test cụ thể hơn (Troponin) để khăng định có tổn thương xảy ra tại tim. Chi tiết về CK-MB CK-MB là một trong ba dạng riêng biệt (isoenzymes) của enzym creatine kinase (CK). CK-MB là dạng tồn tại chủ yếu ở cơ tim. Nó tăng lên khi có xuất hiện tổn thương ở các tế bào cơ tim. CK-MB cùng với tổng số CK, được xét nghiệm ở những người có đau ngực để chẩn đoán họ có bị một cơn đau tim hay không. Do CK toàn phần có thể tăng lên do tổn thương tại cả tim và cơ, CK-MB sẽ là chỉ số đặc hiệu hơn để phân biệt giữa hai tổn thương đó. Ngoài ra nếu bệnh nhân đang được chỉ định dùng một thuốc làm tan cục máu đông, CK-MB có thể giúp bác sĩ biết được thuốc đó có hiệu quả điều trị hay không. Khi cục máu đông tan, CK-MB có xu hướng tăng lên và giảm nhanh hơn. Bằng cách đo CK-MB trong máu nhiều lần, bác sĩ có thể khẳng định thuốc đã đạt hiệu quả. CK-MB thường được chỉ định xét nghiêm cùng với CK toàn phần. Tăng CK-MB thường có thể được phát hiện ở bệnh nhân đau tim khoảng 3-4 giờ sau khi khởi phát đau ngực. Nồng độ CK-MB đỉnh tại 18-24 giờ và sau đó trở lại bình thường trong vòng 72 giờ. Nếu giá trị của CK-MB cao và tỷ lệ CK-MB trong tổng số CK toàn phần là hơn 2,5-3, nhiều khả năng là tim đã bị tổn thương nặng. Còn nếu tỉ lệ này nhỏ hơn chứng tỏ rằng cơ xương mới là nơi bị tổn thương. * Câu hỏi thường gặp 1. Đau tim nghĩa là gì? Đau tim có nghĩa là một số các cơ trong trái tim của bạn đã không còn hoạt động. Thuật ngữ y tế cho điều này là nhồi máu cơ tim (MI). Một cách phổ biến nhất, cơn đau tim bắt đầu với huyết áp tăng cao hoặc đau ngực, thường lan tỏa đến cổ hoặc cánh tay trái. Bệnh nhân cảm thấy khó thở, hay ra mồ hôi lạnh. Một cơn đau tim thường xảy ra khi một trong động mạch vành mang máu lại cơ tim bị chặn. Điều này xuất hiện khi một cục máu đông các mạch máu đó, Nguyên nhân là do chất béo quá nhiều trong các mạch máu (xơ vữa động mạch). 2. Nếu tôi có cơn đau thắt ngực, điêu đó có nghĩa là tôi bị nhồi máu cơ tim? Nhiều bệnh cảnh khác có thể gây ra đau ngực, và không phải lúc nào đau ngực cũng là biểu hiện của một cơn nhồi máu cơ tim. Nhiều người bị đau ngực do căng cơ ở ngực của họ, và đau ngực có thể xảy ra với một số vấn đề về phổi. Đau ngực có thể là một dấu hiệu cảnh báo tổn thương động mạch của tim (bệnh động mạch vành). Đau ngực xảy ra trong thời gian tập thể dục, làm việc chăm chỉ, hoặc vào các thời điểm căng thẳng, kéo dài vài phút và lan xa được gọi là đau thắt ngực. 3. Các test kiểm tra tim bao gồm những gì? Bác sĩ có thể sử dụng nhiều hơn một test để xác định xem một người có đau ngực là bị đau tim hay không. Troponin thường được coi là test chính xác nhất, và isoenzyme CK-MB cũng rất chính xác trong việc phát hiện tổn thương tại tim, ngay cả khi không có dấu hiệu khác của bệnh tim. Myoglobin và creatine kinase toàn phần hầu như luôn luôn tăng ở bệnh nhân bị đau tim nên không đặc hiệu bằng. 2 AST Mặc dù AST là xét nghiệm đầu tiên được sử dụng để chẩn đoán nhồi máu cơ tim nhưng nó không đặc hiệu với tim nên hiện nay không có ý nghĩa lâm sàng trong chẩn đoán nhồi máu cơ tim nữa. Tuy nhiên, đôi khi bác sĩ vẫn chỉ định xét nghiệm AST để tham khảo thêm 3 LDH * Ý nghĩa lâm sàng: Để giúp xác định được nguyên nhân và vị trí của tổn thương các tế bào trong cơ thể và theo dõi tiến triển của tổn thương đó. LDH có thể tăng cao trong nhiều trường hợp (điều này phản ánh sự phân bố rộng rãi trong mô của nó). Trước đây LDH được sử dụng để giúp chẩn đoán và theo dõi một cơn đau tim, nhưng hiện nay Troponin đã thay thế phần lớn LDH trong vai trò này. Tuy nhiên LDH vẫn có vai trò trợ giúp trong chẩn đoán bệnh tim Chi tiết về xét nghiệm Lactate dehydrogenase (LDH ) là một loại enzyme được tìm thấy ở hầu hết các mô của cơ thể, nhưng chỉ có một số lượng nhỏ của nó được phát hiện trong máu. Do được chứa trong mô tế bào, LDH được giải phóng vào máu khi tế bào bị tổn thương hoặc phá hủy. Do đó, các xét nghiệm LDH có thể được sử dụng như một điểm đánh dấu chung của tổn thương các tế bào. Nồng độ cao của LDH có thể được đo bằng DH toàn phần hoặc dạng isoenzyme LDH. LDH toàn phần là một tổ hợp chung của năm isoenzymes LDH khác nhau. Mức LDH toàn phần phản ánh sự tổn thương chung của tế bào nhưng không đặc hiệu và cụ thể. Do đó một mình lDH toàn phần không thể được sử dụng để xác định nguyên nhân hoặc vị trí của tổn thương. Mỗi enzym trong số 5 isoenzymes LDH thường tập trung ở các mô khác nhau của cơ thể. Do đó, nồng độ của các LDH isoenzyme riêng biệt có thể được sử dụng để giúp xác định các bệnh gây tổn thương tế bào và để giúp xác định các cơ quan và các mô liên quan: • LDH-1, tim, hồng cầu, thận, các tế bào mầm • LDH-2, tim, hồng cầu, thận (thấp hơn LDH-1) • LDH-3, phổi và các mô khác • LDH-4, các tế bào bạch cầu, hạch bạch huyết, bắp thịt, gan (ít hơn LDH-5) • LDH-5, gan, cơ xương Trong số tất cả các isoenzymes LDH, thì LDH-2 thường chiếm tỷ lệ lớn nhất. Nông độ LDH bắt đầu tăng khi tế bào bị phá hủy, đạt đỉnh sau một khoảng thời gian nhất định, và sau đó bắt đầu giảm. Ví dụ, khi bệnh nhân có một cơn đau tim, nồng độ LDH tổng số sẽ tăng trong vòng 24 đến 48 giờ, đạt đỉnh trong 2-3 ngày, và trở về bình thường trong 10-14 ngày. Chức năng chính của xét nghiệm LDH là để theo dõi sự tồn tại, mức độ nặng nhẹ của các tổn thương cấp và mạn tính có thể gay tổn thương mô tế bào. Isoenzymes LDH cũng có thể được sử dụng trong chẩn đoán xác định cơ quan bị tổn thương. LDH1 đặc hiệu với cơ tim nhất, việc xác định hoạt độ của nó có thể giúp xác định diễn tích nhồi máu vì có sự liên quan giữa mức tăng hoạt độ này với diện tích nhồi máu. Mức độ LDH cao còn có thể được nhìn thấy với: • Thuốc: anesthetics, aspirin, ma túy, procainamides, rượu • Thiếu máu ác tính • Viêm bạch cầu mono • đường ruột và nhồi máu phổi • Bệnh thận • Bệnh gan • Bệnh tụy • Ung thư bạch huyết hoặc bệnh ung thư khác * Câu hỏi thường gặp 1. Tại sao nồng độ các isoenzyme LDH thường tăng lên đồng loạt với nhau? Một số isoenzymes LDH có thể tăng cùng một lúc, nếu số lượng cơ quan bị tổn thương nhiều hơn một . Ví dụ trong trường hợp của bệnh nhân có bệnh viêm phổi, và rồi đột nhiên có một cơn đau tim. Hoặc nếu bệnh nhân ung thư di căn đó có ảnh hưởng đến nhiều cơ quan. 4. Troponin * Ý nghĩa lâm sàng: Để xác định xem bệnh nhân có một cơn đau tim hoặc tổn thương đến cơ tim hay không Khi nào cần xét nghiệm: Xét nghiệm ngay lập tức và một lần nữa sau khoảng 4-6 giờ nếu bệnh nhân bị đau ngực hoặc có các triệu chứng khác có thể liên quan đến cơn đau tim Chi tiết về xét nghiệm Các troponin là một họ protein được tìm thấy trong xương và các sợi cơ tim. Ba kiểu khác nhau của Troponin được gọi là Troponin C (TnC), Troponin T (TnT), và Troponin I (TnI). Cả ba protein đều có chức năng điều khiển sự co cơ. Riêng TnI và TnT chỉ được tìm thấy trong tim với số lượng rất nhỏ trong máu. Khi có tổn thương các tế bào cơ tim, troponin l và T được giải phóng vào vong tuần hoàn máu. Mức độ tổn thương càng lớn, nồng độ Tnl và TnT càng lớn. Khi bệnh nhân có một cơn đau tim, nồng độ các troponin sẽ tăng cao trong máu sau 3 hoặc 4 giờ và có thể vẫn duy trì mức đó cho 10-14 ngày. Troponins thường được chỉ định xét nghiệm cùng với các dấu ấn tim mạch khác như CK-MB hoặc myoglobin. Tuy nhiên, troponin là những test thích hợp nhất cho chấn đoán bệnh về tim, do chúng có tính đặc hiệu cao hơn các xét nghiệm khác (ngoài tổn thương tim, các xét nghiệm này cũng cho giá trị cao trong chấn thương cơ xương). Đồng thời mức troponin và vẫn còn cao trong một thời gian dài sau tổn thương. Bình thường, nồng độ Troponin tim rất thấp, gần như không định lượng được. Do đó chỉ một sự tăng nhẹ cũng có thể cho thấy tim đang bị tổn thương. Khi bệnh nhân có nồng độ Troponin tăng lên đáng kể, chứng tỏ bệnh nhân đã bị tổn thương tim nghiêm trọng. Các giá trị troponin có thể vẫn cao cho 1-2 tuần sau cơn đau tim. Do có tính đặc hiệu cao, test troponin không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như tổn thương cơ, tai nạn, hay tác dụng của thuốc. Ngoài ra, troponin có thể tăng sau khi vận động nặng. 5. Peptid bài niệu natri nguồn gốc não (BNP) * Ý nghĩa lâm sàng: BNP là một hormon peptid được tách chiết lần đầu tiên từ mô não của lợn, nó có tác dụng sinh học tương tự nhu peptid bài niệu natri của tâm nhĩ (ANP). BNP được dự trữ chủ yếu ở cơ tâm thất. Nồng độ BNP trong máu tăng khi có tăng thể tích máu như xung huyết tim, tăng huyết áp. Khi đó, BN và ANP được bài tiết ra để điều hòa thể tích dịch, áp suất máu và cân bằng điện giải. Ở người, tuy BNP được sản xuất bởi não nhưng nguồn gốc BNP trong máy chủ yếu là từ tâm thất. BNP được giải phóng từ một prohormon là Pro- BNP. BNP và NT-proBNP giúp bác sĩ có thể chẩn đoán phân biệt giữa suy tim và các bệnh khác, ví dụ như bệnh phổi. Mức độ của BNP hoặc NT- proBNP trong máu có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của suy tim. Nồng độ NT-proBNP càng cao chứng tỏ tình trạng của bệnh nhân càng có tiên lượng xấu. Mãi đến năm 2000, xét nghiệm BNP mới bắt đầu được sử dụng trong lâm sàng như một dấu ấn chẩn đoán xung huyết tim. Tuy nhiên, BNp cần được phối hợp với các xét nghiệm khác để củng cố khảng định chẩn đoán cho bác sĩ. Giới hạn bình thường của BNP là dưới 100ng/L. 6. Myogobin (Mb) Mb là một protein Hem kết hợp Oxy, chiếm từ 5% tới 10% của protein bào tương. Mb được giải phóng nhanh chóng từ cơ vân ( cả cơ xương và cơ tim) khi cơ bị tổn thương. Mb bắt đầu được sử dụng như một dấu ấn tim mạch từ 1970, nhờ kĩ thuật miễn dịch phóng xạ RIA. Mb nhạy hơn so với Ck và CK-MB ở những giờ đầu sau khi khởi phát nhồi máu cơ tim, do đó nó có tác dụng phát hiện sớm. Mb bắt đầu tăng trong vòng 2-4h, và được tìm thấy ở tất cả các bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim cấp trong khoảng thời gian từ 6-10h sau khi khởi phát nhồi màu cơ tim. Tuy nhiên nếu sau 10-12h thì xét nghiệm CK-MB đặc hiệu hơn vì khi đó nồng độ Mb đã trở lại bình thường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf2_5276.pdf
Tài liệu liên quan