Những yếu ngoại giới, vật lý, cơ học, hoá học có thể gây xạm da lan toả,
nhưng thường gặp nhất là xạm da khu trú. Trước đó có ban đỏ rõ. Rám nắng là
một xạm da khu trú điển hình ở phần hở. Xạm da do bức xạ U.V cũng là vào loại
đó. Xạm da do nóng, do tiếp xúc lâu ngày với một ổ toả nhiệt thường là một xạm
da khu trú lan toả hoặc hình lưới.
3.1. Xạm da do lồng ấp ( lò sưởi) là thể phổ biến và dễ nhận nhất trong số
xạm da do nóng. Thường gặp ở mặt trong cẳng chân, đùi, hoặc ở bụng thành một
xạm da hình lưới, đỏ, xạm da, tổn thương khu trú ở mạng lưới mạch máu dưới da.
Sau một thời gian chạy tia X, da cũng thường bị xạm , nâu xẫm.
Trong xạm da do cảm ứng ánh nắng, tổn thương thường kèm teo da, nhưng
có thể có vai trò của yếu tố khác ( nội tiết, thiếu vitamin) điển hình là ban đỏ dạng
Pellagre và bệnh Pellagre.
Tì ép, gãi lâu ngày cũng có thể xạm da.
3.2. Xạm da do Hydrocacbua và hắc ín. đôi khi gặp ở công nhân tiếp xúc
dầu mỡ, xạm da lan toả ở cẳng tay, cổ, mặt, kèm theo róc da và quá sừng nang
lông " nụ dầu" " xạm da nhiễm độc Habermann-Hoffmann" xạm da kèm dày sừng
nang lông do dầu mỡ chải tóc. cũng được xếp vào loại này.
Rám da ( Chloasma) nám má gồm những vết xẫm màu viền nham nhở,
không đều nhưng rất rõ, hầu hết là đối xứng ở mặt. Các đám xạm da nổi ở trán,
vùng dưới hốc mắt, thái dương, gò má giữa hai lông mày, phần trên sống mũi,
cách xa rìa tóc, và phía trên 2 lông mày, thành đường vòng cung. Mi mắt và cằm
thường không bị. Giữa các đám xạm da thường có các vết da lành xen kẽ. Màu đi
từ vàng đến nâu xẫm, không có ban đỏ róc da cũng nh ư không có teo da, không
ngứa.
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Xạm da, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XẠM DA
( MÉLANODERMIES)
(Kỳ 2)
Giáo trình Bệnh da - Hoa liễu HVQY
3. Nhiễm sắc từng vùng .
Những yếu ngoại giới, vật lý, cơ học, hoá học có thể gây xạm da lan toả,
nhưng thường gặp nhất là xạm da khu trú. Trước đó có ban đỏ rõ. Rám nắng là
một xạm da khu trú điển hình ở phần hở. Xạm da do bức xạ U.V cũng là vào loại
đó. Xạm da do nóng, do tiếp xúc lâu ngày với một ổ toả nhiệt thường là một xạm
da khu trú lan toả hoặc hình lưới.
3.1. Xạm da do lồng ấp ( lò sưởi) là thể phổ biến và dễ nhận nhất trong số
xạm da do nóng. Thường gặp ở mặt trong cẳng chân, đùi, hoặc ở bụng thành một
xạm da hình lưới, đỏ, xạm da, tổn thương khu trú ở mạng lưới mạch máu dưới da.
Sau một thời gian chạy tia X, da cũng thường bị xạm , nâu xẫm.
Trong xạm da do cảm ứng ánh nắng, tổn thương thường kèm teo da, nhưng
có thể có vai trò của yếu tố khác ( nội tiết, thiếu vitamin) điển hình là ban đỏ dạng
Pellagre và bệnh Pellagre.
Tì ép, gãi lâu ngày cũng có thể xạm da.
3.2. Xạm da do Hydrocacbua và hắc ín... đôi khi gặp ở công nhân tiếp xúc
dầu mỡ, xạm da lan toả ở cẳng tay, cổ, mặt, kèm theo róc da và quá sừng nang
lông " nụ dầu" " xạm da nhiễm độc Habermann- Hoffmann" xạm da kèm dày sừng
nang lông do dầu mỡ chải tóc... cũng được xếp vào loại này.
Rám da ( Chloasma) nám má gồm những vết xẫm màu viền nham nhở,
không đều nhưng rất rõ, hầu hết là đối xứng ở mặt. Các đám xạm da nổi ở trán,
vùng dưới hốc mắt, thái dương, gò má giữa hai lông mày, phần trên sống mũi,
cách xa rìa tóc, và phía trên 2 lông mày, thành đường vòng cung. Mi mắt và cằm
thường không bị. Giữa các đám xạm da thường có các vết da lành xen kẽ. Màu đi
từ vàng đến nâu xẫm, không có ban đỏ róc da cũng như không có teo da, không
ngứa.
3.3.Nám má thường xuất hiện trong lúc có mang ( mặt nạ người có mang)
sau khi đẻ, có kinh lại, có thể mất nhưng cũng có khi kéo dài nhiều năm, đến quá
thời kỳ mãn kinh thường kèm theo xẫm màu ở đường trẵng giữa bụng, ở vú, ở âm
hộ.
Nhưng cũng có thể gặp ở người không có mang, thậm chí cả ở đàn ông, gặp
ở phụ nữ có viêm tử cung, viêm ống dẫn trứng, rối loạn buồng trứng, có liên quan
rõ tới chức phận tuyến nội tiết ( buồng trứng, tuyến yên).
Điều trị thường ít kết quả. Điều trị giống như một xạm da Riehl. Có thể bôi
thử các thuốc , róc da tẩy màu. Không nên áp tuyết CO2, có thể làm tăng bệnh.
3.4. Linéa fusca: còn goi là " cung nâu trán" là một xạm da vùng trán, chạy
từ thái dương này sang bên kia, dọc theo ria tóc, chiều rộng khoảng 1 cm như là
một hình cánh cung, mà hai đầu ở thái dương thẳng và rộng hơn, đôi khi hình cánh
cung ít rõ hơn và đứt đoạn.
Bệnh này do Andersen, Haxthausen ( 1930 - 1933) nghiên cứu.
Thường kèm theo tổn thương viêm hoặc u ở não, hoặc thần kinh trung ương
( viêm não, giang mai thần kinh, u não...).
3.5. Xạm da Riehl : còn gọi là " xạm da chiến tranh" do Riehl tả từ
1917,sau đó trong chiến tranh thế giới lần thứ II cũng còn gặp. Trong các nước
không có chiến tranh bệnh này hiếm gặp hơn.
Bệnh hầu như chỉ gặp ở phụ nữ 30- 50 tuổi.
Thường xuất hiện sau một buổi ra nắng với triệu chứng ban đỏ ngứa của "
cháy nắng" sau đó nhanh chóng thẫm màu. Nhiều đợt đỏ ngứa , róc da,có liên qua
tới ra nắng hoặc không lại tiếp diễn, làm cho da ngày càng xạm lại,có trường hợp
ngay từ đầu đã xạm da, ngày càng lan rộng, không có liên quan gì tới ánh nắng,
không qua giai đoạn ban đỏ. Nhưng phần lớn trường hợp vai trò của ánh sáng rõ
rệt, bệnh tăng vào mùa hè.
Ban đầu chỉ là những vết, những điểm xạm da rất nhỏ, nhưng sau đó lan
rộng nhanh, làm cho toàn da mặt bị xạm. Rõ nhất là ở thái dương, trán, gò má, cổ.
Ở trán xạm da thường cách đường ria tóc khoảng 1 cm, mũi, quanh miệng thường
ít bị hơn, 2 bên cổ, gốc cổ và phần hở ngực thường bị, gợi lên yếu tố cảm ứng ánh
nắng. Các vùng khác hiếm bị hơn.
Điểm nổi bật của xạm da Riehl là hình mạng lưới, các lỗ chân lông không
bị thành vết lấm tấm nhỏ, san sát.Nhưng cũng có khi thành đám xạm da lan toả,
đồng đều.
Màu từ vàng từ đậm đến nâu xẫm, đôi khi ngả màu tím hoa cà.
Thượng bì bình thường nhưng đôi khi ở vùng có hình mạng lưới da hơi teo
kiểu viêm da biến dạng (Poikilodermic). Trên các vùng xẫm màu ở cổ, có thể thấy
các sẩn dẹt nhỏ, bóng, dạng liken. Trong niêm mạc miệng cũng có thể có các vết
trắng dạng liken. Bệnh kéo dài hàng năm, tăng về mùa hè dễ tái phát nhưng tiên
lượng lành tính chỉ ảnh hưởng về thẩm mỹ. Nguyên sinh bệnh rất phức tạp: có vai
trò của nhiều yếu tố.
Vai trò của ánh sáng. Do tác dụng trực tiếp hoặc do cảm ứng nhưng
porphyrin rất ít khi cao. Chất điểm trang có thể gây cảm ứng.
Rối loạn ding dưỡng thời chiến: ( ăn thực phẩm chất lượng xấu,thiếu
viatmin C,PP, B) nhưng ở nông thôn nhiều người dinh dưỡng tốt vẫn bị bệnh.
Rối loạn tiêu hoá, thiểu năng gan...
Vai trò của đồng (Cu), mà tỷ lệ thường cao trong máu bệnh nhân.
Một số chất có thể gây xạm da: hắc ín dầu mỡ, than đá, chất nhuộm tóc, chất
điểm trang.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xam_da_ky_2_585.pdf