Thuật ngữ “Xã hội học” (Sociology) có nguồn gốc từ chữ Socius hay Societas
trong tiếng Latinh với nghĩa là xã hội và chữ Ology - Ologie hay Logos trong tiếng
Hylạp, có nghĩa là khoa học, học thuyết hay nghiên cứu. Như vậy xã hội học được
hiểu là học thuyết về xã hội, hay khoa học nghiên cứu về xã hội. Auguste Comte (1798
– 1857) là người đầu tiên đề xuất ra khái niệm này vào năm 1839 và ông được ghi
nhận là “cha đẻ” của ngành xã hội học. A. Comte chủ trương áp dụng mô hình phương
pháp luận của khoa học tự nhiên và chủ nghĩa thực chứng để nghiên cứu các quy luật
của sự biến đổi xã hội; đặc biệt là các phương pháp của khoa học Vật lý. Vì vậy, bấy
giờ xã hội học còn được gọi là “Vật lý xã hội”.
63 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 906 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Xã hội học đại cương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác xã hội khác nhau:
- Hoạt động cá nhân - cùng nhau: các cá nhân được giao cùng làm những công
việc nào đó, mà việc thực hiện củ người này không ảnh hưởng đến tốc độ, công việc
của người kia.
- Hoạt động tiếp nối - cùng nhau: công việc được thực hiện tiếp nối theo kiểu dây
chuyền, do vậy sự thực hiện nhiệm vụ của người này ảnh hưởng nhiều đến tốc độ và
chất lượng công việc của người kia.
- Hoạt động tương hỗ - cùng nhau: sự tương tác cá nhân đồng thời với tất cả các
cá nhân khác trong cùng hoạt động.
2.4.3. Phân loại theo chủ thể hành động
Trong tương tác xã hội tối thiểu phải có hai chủ thể hành động tham gia, có thể
đó là cá nhân, nhóm hay cả xã hội, diễn ra theo các dạng:
- Tương tác liên cá nhân
- Tương tác cá nhân - xã hội
- Tương tác nhóm - xã hội
- Tương tác nhóm - nhóm
- Tương tác giữa các cá nhân với tư cách đại diện cho các nhóm khác nhau, có
thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp (bằng các phương tiện kỹ thuật thông tin).
2.4.4. Phân loại theo mục tiêu, ý nghĩa xã hội của tương tác
Trong quá trình tương tác, các chủ thể hành động luôn mang một trong những
đặc trưng xã hội như: đồng tình hay xung đột, thích ứng hay đối lập, liên kết hay chia
rẽ Tất cả qui thành hai nhóm:
Một, bao gồm những biểu hiện tương tác mang tính tích cực, xây dựng. Nhờ đó
các chủ thể có thể tổ chức các hoạt động chung. Nhóm này có tên gọi là tương tác theo
dạng hợp tác.
Hai, chứa đựng những biểu hiện tương tác mang tính tiêu cực, phá hoại, đối
kháng, ngăn cản những hoạt động chung. Đó là tương tác dạng cạnh tranh.
Trên đây là những loại hình tương tác cơ bản nhất. Ngoài ra còn có một số loại
tương tác khác như: tương tác dài hạn, ngắn hạn; tương tác thiết chế hoá, không thiết
chế hoá; tương tác ổn định, tương tác không ổn định...
3. QUAN HỆ XÃ HỘI
3.1. Nội dung, đặc điểm của quan hệ xã hội
Theo quan điểm của triết học, tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong xã hội đều có
những mối liên hệ với nhau và tồn tại trong mối liên hệ ấy. Tuy nhiên không phải mối
liên hệ nào cũng là quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội được hình thành từ tương tác xã
hội, nhưng đó phải là những tương tác có mục đích, có kế hoạch, có xu hướng lặp lại
và ổn định. Quan hệ xã hội là quan hệ bền vững, ổn định của các chủ thể hành động
được hình thành trên những tương tác xã hội. Chủ thể của quan hệ xã hội là các cá
nhân, các nhóm, các tập đoàn hay toàn xã hội. Các nhà nghiên cứu thường chia chủ thể
quan hệ xã hội ra làm hai cấp độ: vĩ mô và vi mô.
Ở cấp độ vĩ mô: chủ thể quan hệ xã hội là các nhóm, các tập đoàn hay toàn bộ xã
hội, mỗi loại thường chiếm giữ những vị trí khác nhau trong xã hội. Do vậy họ có
những quyền lực, cơ hội, thu nhập và lối sống khác nhau; đó chính là những tiền tố tạo
ra các tương tác xã hội, để hình thành nên những quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội của
các chủ thể ở cấp độ vĩ mô, thường được thể hiện trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau,
nhưng quan trọng nhất là trong: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Quan hệ xã hội
trong các lĩnh vực này đều có ảnh hưởng tác động đến nhau.
Ở cấp độ vi mô: chủ thể hành động là các cá nhân, trong thực tế, quan hệ giữa
các cá nhân trong xã hội cũng diễn ra đa dạng và chiếm một phần quan trọng của quan
hệ xã hội. Cũng vì thế mà một số nhà nghiên cứu phương Tây gần như đồng nhất quan
hệ xã hội với quan hệ giữa các cá nhân.
Tuy nhiên, khi xem xét quan hệ xã hội của các cá nhân chúng ta nhận thấy rằng,
không phải mọi mối quan hệ của họ đều là quan hệ xã hội. Trong đó có những quan hệ
mang nhiều tính xã hội, có quan hệ ít mang tính xã hội. Tính xã hội của quan hệ được
xác định dựa trên sự chi phối của các giá trị, chuẩn mực chính thức và phi chính thức.
Những quan hệ ít mang tính xã hội đó là những quan hệ tình cảm thuần tuý.
3.2. Phân loại các quan hệ xã hội
3.3.1. Quan hệ “tình cảm” thuần tuý
Quan hệ tình cảm thuần tuý hay còn gọi là quan hệ sơ cấp, dùng để phân biệt với
quan hệ xã hội, được gọi là quan hệ thứ cấp. Hình thức biểu hiện của loại quan hệ này
bộc lộ rất rõ trong giai đình, dòng họ. Cơ chế tương tác để hình thành quan hệ tình
cảm thuần tuý dựa trên căn cứ các đặc điểm sinh học, tâm lý có sẵn ở các cá nhân như
giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích. Về bản chất, quan hệ tình cảm
thuần tuý ít mang tính xã hội, nhưng nó cũng phải dựa trên sự tương tác lâu dài, ổn
định của các chủ thể hành động. Giữa quan hệ tình cảm thuần tuý và quan hệ xã hội có
thể chuyển hoá cho nhau (ví dụ: từ quan hệ tình cảm tốt đẹp hình thành nên quan hệ
kinh doanh thuận lợi, hoặc ngược lại, từ quan hệ kinh doanh tạo ra quan hệ tình
cảm)
3.3.2 . Quan hệ xã hội (quan hệ thứ cấp)
- Xét theo vị thế xã hội, có thể chia quan hệ xã hội thành hai loại: Quan hệ theo
chiều ngang là quan hệ giữa các cá nhân hay nhóm xã hội có vị thế xã hội ngang bằng
nhau. Quan hệ theo chiều dọc, là quan hệ giữa các cá nhân hay nhóm xã hội chiếm giữ
những vị thế xã hội cao, thấp khác nhau (cấp trên - cấp dưới, trung ương - địa
phương).
- Xét theo lĩnh vực xã hội, chúng ta sẽ thấy được tính phong phú, đa dạng và
phức tạp của các quan hệ xã hội trong đời sống hiện thực. Ví dụ, trong lĩnh vực kinh tế
có các quan hệ giữa: sản xuất và tiêu dùng, phân phối và dịch vụ, trong lĩnh vực xã
hội có quan hệ: tình yêu - hôn nhân, gia đình - dòng họ, xóm - làng
3.3.3. Mối liên hệ giữa hành động xã hội, tương tác xã hội và quan hệ xã hội
Có thể nói hành động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ giữa con người và xã hội,
là cơ sở của đời sống xã hội con người. Hành động xã hội cũng là cơ sở của tương tác
xã hội. Nếu như hành động được coi là bộ phận cấu thành nên hoạt động của các cá
nhân thì tương tác được coi là quá trình hành động và hành động đáp trả của chủ thể
này với các chủ thể khác. Quan hệ xã hội được hình thành từ các tương tác xã hội. Như
vậy, có thể thấy rằng rằng hành động xã hội, tương tác xã hội và quan hệ xã hội có mối
quan hệ hữu cơ với nhau.
CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ HƯỚNG DẪN TỰ HỌC CHƯƠNG 3
1. Câu hỏi ôn tập:
1. Hành động xã hội là gì? Cấu trúc của hành động xã hội và những yếu tố quy định
hành động xã hội của con người.
2. Phân tích sự khác nhau giữa khái niệm hành động xã hội và hành vi. Trình bày bốn
loại hành động của M.Weber
3. Thế nào là tương tác xã hội? Trình bày nội dung của lý thuyết tương tác biểu trưng.
4. Quan hệ xã hội là gì? Tính xã hội của các quan hệ được xác định dựa trên cơ sở nào?
Trình bày các loại quan hệ xã hội cơ bản.
2. Hướng dẫn tự học:
Trọng tâm kiến thức của chương 3 là:
- Mọi hoạt động sống của con người hầu như đều được biểu hiện thông qua các hành
động, trong đó có những hành động bị chi phối bởi bản năng – hành động vật lý, loại hành
động thường xảy ra tự phát, con người không có chủ định trước, vì vậy rất khó kiểm soát và
không có hoặc rất ít có tính xã hội. Những hành động mà chủ thể của nó đã có chủ định và
cân nhắc trước khi thực hiện, đồng thời có tác động nhất định đến xã hội thì mới được coi là
hành động xã hội. Ở đây yêu cầu người học phải phân biệt được hai khái niệm: « Hành động
xã hội » và « Hành vi ».
Hãy nắm vững nội dung và phương pháp phân loại hành động của M.Weber, tìm những
ví dụ cụ thể trong đời sống hàng ngày để minh hoạ.
- Tương tác xã hội là hiện tượng phổ biến trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, đó
là sự tác động qua lại giữa các chủ thể hành động xã hội (hành động của người này và sự đáp
lại (phản ứng) của người kia. G. Mead là người đã đưa ra một kiểu tương tác gọi là tương tác
biểu trưng. Nguyên tắc cơ bản của tương tác biểu trưng là sự quy ước của những con người
trong một tiểu văn hoá. Hệ thống biểu tượng (ngôn ngữ, chữ viết, vật tượng trưng, cử chỉ...)
đều được ngầm định một thông tin nào đó (do con người quy ước với nhau, ví dụ: các tín kí
hiệu giao thông, cấp bậc trong lực lượng quân đội, hoa hồng, chim bồ câu...). Ngoài ra còn
nhiều lý thuyết tương tác khác, đồng thời các nhà XHH cũng đưa ra những cách phân loại
tương tác...
- Con người xã hội luôn tồn tại trong các mối quan hệ xã hôi, xã hội càng phát triển thì
các quan hệ trong xã hội càng phức tạp; Cấp độ của các quan hệ xã hội cũng rất khác nhau (cá
nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội hay giữa các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc, vùng
miền... Căn cứ vào mức độ của quan hệ mà người ta phân thành các cấp độ : vi mô, vĩ mô; lưu
ý, so sánh hai loại quan hệ sơ cấp và thứ cấp...
Chương 4
CƠ CẤU XÃ HỘI, PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI
1. CƠ CẤU XÃ HỘI
1. 1. Khái niệm cơ cấu xã hội
Cơ cấu xã hội là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội.
Các cộng đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm nghề nghiệp) là những thành phần cơ
bản của cơ cấu xã hội. Trong mỗi cộng đồng xã hội lại lại bao gồm những cơ cấu phức
tạp như: các tầng lớp xã hội và mối liên hệ giữa chúng.
Cơ cấu xã hội là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong
một hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả các xã hội
loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các mối liên hệ giữa chúng luôn
có sự biến đổi từ xã hội này sang xã hội khác. Những thành phần quan trọng nhất của
cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm và các thiết chế. Cơ cấu xã hội cũng bao gồm cả
thiết chế gia đình, dòng họ, tôn giáo, kinh tế, chính trị, văn hoá, hệ thống chuẩn mực,
giá trị
Khái niệm cơ cấu xã hội liên quan mật thiết với khái niệm hệ thống xã hội. Khi
nói tới cơ cấu xã hội, cần quan tâm tới những khía cạnh sau: xã hội là một tổ chức
phức tạp, đa dạng của các mối liên hệ cá nhân, tổ chức xã hội và xã hội. Cơ cấu xã hội
có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với các quan hệ xã hội. Quan hệ xã hội là hình thức vận
động của cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội là nội dung có tính chất bản thể luận của các
quan hệ xã hội, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội. Trong tiến
trình lịch sử xã hội loài người đã từng tồn tại các kiểu xã hội đặc trưng cho từng thời
đại như:
- Kiểu xã hội hái lượm, săn bắn với công cụ lao động thô sơ, yếu tố thân tộc là
nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của đời sống xã hội, cơ cấu chính trị hầu như
không tồn tại, không có bộ máy quyền lực ngoài vai trò của tộc trưởng.
- Kiểu xã hội làm vườn, cấu trúc chính trị của kiểu xã hội này bao gồm sự tồn tại
của từ hai đến bốn tầng lớp xã hội. Dòng họ là trung tâm của xã hội, có nhiều phức tạp
về hình thức của tính họ hàng và luật lệ hôn nhân, gia đình.
- Kiểu xã hội nông nghiệp, nhờ có sự tiến bộ của công cụ lao động và sử dụng sức
kéo của súc vật mà sản xuất nông nghiệp đã tạo ra được nguồn lương thực, thực phẩm
nhiều hơn nhu cầu (dư thừa). Trên cơ sở đó các tổ chức xã hội có thể phát triển thủ
công, buôn bán, phát triển bộ máy công chức và quân đội, nhà nước ra đời, chữ viết,
tiền tệ xuất hiện Những hình thức chính trị phức tạp thêm, chúng bắt đầu xâm nhập
vào đơn vị dòng họ như một đơn vị cơ sở của xã hội. Tuy vậy, dòng họ vẫn tiếp tục
đóng vai trò quan trọng trong chính trị, những cơ quan dân sự và quân sự phải trải qua
từ cha đến con, hầu hết các việc kinh doanh, buôn bán đều được chỉ dẫn bởi các gia
đình. Ở nông thôn gia đình tồn tại như một đơn vị lao động cơ bản.
- Kiểu xã hội công nghiệp, loại xã hội này bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ
XVIII, sản xuất công nghiệp liên quan đến sự tiếp cận của tri thức khoa học trong quá
trình phát triển sản xuất, sức người và động vật được thay thế dần bởi sức mạnh của
động cơ và sau đó là người máy. Nền sản xuất công nghiệp tiên tiến và khổng lồ hơn
tất cả các nền kinh tế xã hội khác, nó có khả năng nuôi dưỡng một số lượng dân số lớn
tập trung chủ yếu ở những trung tâm đô thị lớn. Hầu hết các xã hội công nghiệp đều
phát triển những hệ thống của nhà nước với bộ máy cồng kềnh và hệ thống quân đội
mạnh.
Về mặt thiết chế, trong tất cả các loại hình xã hội sơ khai và hiện đại đều tồn tại ít
nhất 5 thiết chế xã hội cơ bản, đó là: gia đình, kinh tế, tôn giáo, chính trị và giáo dục,
đây chính là nền tảng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển cũng như sự duy trì các trật
tự xã hội.
1.2. Một số lý thuyết về cơ cấu xã hội
1.2.1. Thuyết cơ cấu - chức năng
Các ý tưởng của thuyết này khởi xướng từ A. Comte, được H. Spencer phát triển
và những người khác kế thừa, xây dựng thành chủ nghĩa cơ cấu - chức năng. Hiện nay
nó được xem là một trong những công cụ lý luận chủ yếu để xem xét và phân tích các
hiện tượng xã hội. A. Comte quan niệm rằng, tất cả những gì chống lại quy luật về sự
hài hoà của xã hội đều là không hợp lý. Theo ông tiêu chuẩn cao nhất của việc đánh
giá các hiện tượng xã hội phải dựa trên nguyên tắc: trật tự là cơ sở, tiến bộ là mục tiêu,
do vậy, mà ông phủ nhận những bước phát triển nhảy vọt trong phát triển xã hội.
1.2.2. Thuyết chức năng
Xuất phát điểm của lý thuyết chức năng là ở châu Âu vào nửa đầu thế kỷ XX, bắt
nguồn từ sự định hướng khái quát của E. Durkheim, nhưng sau đó lại rất phát triển ở
Mỹ. Lý thuyết chức năng cho rằng, hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội riêng
biệt đều xuất phát từ chức năng. Chuẩn mực, giá trị, văn hoá là những yếu tố căn
bản nhất của hoạt động xã hội. Cơ cấu xã hội không phụ thuộc vào một phương thức
sản xuất nào mà chỉ do hành vi cá nhân và chức năng của hệ thống hay tiểu hệ thống
xã hội quy định. Lý thuyết chức năng, sau khi ra đời đã nhanh chóng trở thành một lý
thuyết quan trọng trong nghiên cứu Xã hội học.
1.3. Các yếu tố chủ yếu của cơ cấu xã hội
1.3.1. Vị thế xã hội
- Khái niệm
Theo I. Robertsons, vị thế xã hội là một vị trí xã hội. Mỗi vị thế xã hội quyết định
chỗ đứng của một cá nhân hay một nhóm xã hội5. Vị thế xã hội là vị trí xã hội của các
cá nhân cùng với những trách nhiệm và quyền lợi được gắn kèm theo vị trí đó. Quan
niệm này đồng nhất vị thế xã hội với địa vị xã hội.
Địa vị xã hội là một chỉ số tổng quát xác định trách nhiệm và quyền lợi của một
cá nhân hoặc nhóm xã hội trong hệ thống xã hội nhất định6. Quyền lợi và trách nhiệm
cao, thấp khác nhau của các vị trí xã hội sẽ tạo ra thứ bậc của chúng. Khi xem xét các
vị trí xã hội với những quyền và nghĩa vụ kèm theo (tức xem xét vị thế xã hội của cá
nhân), sẽ thấy được sự khác biệt trong thứ bậc xã hội. Vị thế xã hội của cá nhân chính
là sự đánh giá của xã hội với một vị trí xã hội.
Đã là con người có nhân cách - con người xã hội, thì ai cũng có vị thế xã hội hoặc
cao hoặc thấp và sự sắp xếp này là khách quan, không phụ thuộc vào quan niệm chủ
quan của con người về bản thân mình. Vị thế xã hội của một người nào đó chính là địa
vị hay thứ bậc mà những người cùng thời dành cho người đó trong bối cảnh anh ta
sinh sống, lao động và phát triển. Vị thế xã hội chủ yếu là sản phẩm của đời sống tinh
thần, là sự biểu lộ, bày tỏ thái độ tôn trọng hay khinh rẻ của xã hội đối với các cá nhân.
Theo GS Tương Lai, sự phân tầng vị thế xã hội thông thường phụ thuộc vào 3 yếu tố:
sở hữu tài sản, quyền lực và trí tuệ.
Mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những thể chế xã hội khác nhau, do vậy thang
bậc phân định giá trị xã hội cũng rất khác nhau. Đặc biệt là sự không giống nhau ở
những tiêu chí dùng để thẩm định vị trí cao - thấp của mỗi cá nhân trong xã hội. Một vị
thế được tôn vinh trong xã hội này hay thời đại này, nhưng rất có thể bị coi thường
trong xã hội khác hay thời đại khác, hoặc ngược lại. Ở nhiều nước phương Tây, khi
xem xét, đánh giá vị thế của một cá nhân, người ta thường căn cứ vào những tiêu
chuẩn: dòng dõi xuất thân (sang / hèn); tài sản, của cải của gia đình và bản thân; nghề
nghiệp, chức vụ và những lợi ích quyền lực, vật chất do những điều đó đưa lại; trình
độ văn hoá, giáo dục, đào tạo mà người đó được hấp thụ, kể cả văn bằng, học hàm, học
vị cao thấp; thái độ chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc, chủng tộc, giới tính
Xã hội luôn luôn biến đổi và phát triển kéo theo sự biến đổi của các mối tương
quan xã hội, vì thế vị thế xã hội của các cá nhân cũng có thể bị thay đổi. Xu hướng
chung của toàn xã hội là mọi cá nhân đều có ý thức phấn đấu vươn lên chiếm lĩnh
những vị thế cao hơn. Bởi vị thế xã hội cao bao giờ cũng gắn liền với quyền lực và sự
kính trọng của xã hội. Trong một con người xã hội thường tồn tại nhiều loại vị thế
khác nhau, mỗi loại vị thế chỉ phát huy giá trị và ý nghĩa của nó trong những không
gian, thời gian cụ thể. Đối với mỗi cá nhân vị thế nghề nghiệp bao giờ cũng được coi
là vị thế quan trọng nhất, vì nó quyết định những mối quan hệ xã hội chủ yếu nhất của
con người với cộng đồng xã hội.
5 Nguyễn Đình Tấn: Xã hội học. Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, 2005
6 Lê Thị Kim Lan, Nguyễn Duy Hới: Xã hội học đại cương. Nxb Đại học Huế, 2008
- Phân loại vị thế xã hội:
Khi nghiên cứu các vị thế xã hội, xã hội học thường phân chúng thành hai loại vị
thế xã hội cơ bản đó là: vị thế gán cho và vị thế đạt được:
+ Vị thế gán cho hay còn được gọi là vị thế tự nhiên, gồm hai dạng, thứ nhất, là
những vị thế bị chi phối bởi yếu tố sinh học nằm ngoài ý muốn chủ quan của con
người như: giới tính nam - nữ, tuổi tác già - trẻ, chủng tộc (màu da, cấu tạo thể
chất). Thứ hai, là những vị thế được thừa hưởng từ gia đình, dòng họ, nguồn gốc
xuất thân. Dạng vị thế này thường rất phổ biến trong các xã hội phân chia đẳng cấp
hay thể chế cha truyền con nối (ví dụ: các con trai, con gái của vua ngay từ khi ra đời
đã mặc nhiên là hoàng tử hay công chúa, được thừa hưởng những địa vị cao sang trong
xã hội).
+ Vị thế đạt được hay còn gọi là vị thế xã hội, dạng vị thế này phụ thuộc vào
những yếu tố chủ quan, khách quan mà trong một chừng mực nhất định con người có
thể kiểm soát được. Yếu tố chủ quan như năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức, sự nổ
lực phấn đấu và nghị lực vươn lên của bản thân trong lao động, học tập và tham gia
các hoạt động xã hội. Yếu tố khách quan như thường xuyên được sự hỗ trợ và tạo
nhiều điều kiện thuận lợi về vật chất, tinh thần, sự động viên khích lệ của gia đình,
người thân, tổ chức xã hội Do đó, mà cá nhân cải thiện, thay đổi được vị thế xã hội
của mình từ một cấp độ vị thế xã hội này sang một cấp độ vị thế xã hội khác cao hơn.
1.3.2. Vai trò xã hội
- Khái niệm về vai trò xã hội
Nói đến vai trò xã hội người ta thường liên tưởng tới vai diễn trên sân khấu hay
điện ảnh. Khái niệm vai trò bắt nguồn từ nghệ thuật sân khấu, với ý nghĩa một cá nhân
nào đó phải thực hiện một vai gì đó trong trò diễn, vở diễn. Người nghệ sỹ khi thực
hiện xuất sắc vai diễn của mình thì cũng có nghĩa là đã đáp ứng được những yêu cầu
mà khán giả hay xã hội đặt ra và như vậy tức là người nghệ sỹ đó đã thực hiện được
vai trò mà anh ta đảm nhận.
Trong xã hội học hiện đại, xuất hiện rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về vai
trò xã hội. Theo Dalrendort, vai trò xã hội là một ‘‘tập hợp những kỳ vọng ở trong một
xã hội gắn với hành vi của những người mang các địa vị... ở mức độ này thì mỗi vai
trò riêng là một tổ hợp hay nhóm các kỳ vọng hành vi’’7. Còn theo I. Robentsons, vai
trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế xã
hội nhất định. Hoặc có nghĩa cho rằng: vai trò là một tập những mong đợi, các quyền
và nghĩa vụ được gán cho một vị thế cụ thể ; hay vai trò xã hội là chức năng xã hội, là
mô hình hành vi được xác lập một cách khách quan bởi vị thế của cá nhân trong hệ
thống các quan hệ xã hội, vai trò là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn
7 G.Endruweit và G.Trommsdorff: Từ điển xã hội học. Nxb Thế giới, Hà Nôi, 2002
mẫu tác phong mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một người hay một nhóm xã hội nào
đó phải thực hiện dựa trên cơ sở vị thế xã hội của họ.
Một vị thế xã hội cụ thể bao giờ cũng gắn liền với một vai trò xã hội nhất định.
Trong tiến trình cuộc đời, mỗi cá nhân đều thực hiện một số những vai trò khác nhau,
lần lượt hoặc đồng thời, tổng hợp tất cả các vai trò xã hội mà anh ta đã thực hiện từ lúc
sinh ra cho đến lúc chết sẽ tạo thành nhân cách xã hội của anh ta. Cá nhân sẽ không
thể thực hiện được vai trò xã hội của mình nếu không có sự hợp tác của các thành viên
trong nhóm, nơi mà anh ta đang tham gia (ví dụ: sẽ không có hoạt động của thầy thuốc
nếu không có bệnh nhân, sẽ không có hành động dạy học của giáo viên nếu không có
học sinh).
- Tập hợp vai trò
Một vị thế xã hội có thể có nhiều vai trò, tạo thành một tập hợp vai trò. Sự tương
tác giữa vai trò với vai trò chính là sự tác động qua lại giữa quyền lực, trách nhiệm và
nghĩa vụ, chẳng hạn vai trò của vợ, của chồng, của cha mẹ và con cái; vai trò của thầy
giáo với vai trò của học sinh; vai trò của người lãnh đạo với vai trò của nhân viên... Sự
trao đổi hay nhân nhượng lẫn nhau giữa các vai trò đều phản ánh các quyền và nghĩa
vụ của nó. Một vai trò bao giờ cũng là một tập hợp các mong đợi, các quyền và những
nghĩa vụ được gán cho một vị thế cụ thể.
- Mâu thuẫn, căng thẳng vai trò
Trong đời sống hiện thực, thường tồn tại một khoảng cách giữa cái mà con người
sẽ làm và cái mà họ thực sự phải làm. Người ta thường không giống nhau trong việc
thực hiện các quyền, các nghĩa vụ đúng như yêu cầu đặt ra cho vai trò mà họ đang đảm
nhận. Khi một cá nhân tham gia nhiều nhóm xã hội khác nhau, đảm nhận những vai trò
khác nhau với những lợi ích trái ngược nhau sẽ dẫn đến sự mâu thuẫn, xung đột giữa
các vai trò. Hoặc có lúc xuất hiện sự căng thẳng vai trò, đó là khi các cá nhân phải nỗ
lực hết sức mình để đáp ứng các yêu cầu mong đợi mà xã hội đặt ra cho vai trò của họ.
Trong những trường hợp như vậy, các vai trò quan trọng, cấp bách hơn thường được
ưu tiên thực hiện trước.
Trong xã hội hiện đại, do áp lực của yêu cầu công việc xã hội và nhu cầu cuộc
sống cá nhân mà hiện tượng căng thẳng vai trò và xung đột vai trò diễn ra một cách
phổ biến hơn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng thần kinh
(stress). Ví dụ: người phụ nữ phải đảm nhận vai trò kép, vừa tham gia công tác xã hội,
vừa làm công việc gia đình. Cả hai vai trò này đều đòi hỏi ở họ rất nhiều sức lực và
thời gian, cho nên rất dễ dẫn đến tình trạng thực hiện tốt vai trò này thì sao nhãng vai
trò kia.
- Các loại vai trò :
Có nhiều loại vai trò, nó được thể hiện tuỳ theo các dấu hiệu phân tích khác nhau
dưới đây:
+ Vai trò chỉ định: là vai trò được gán cho, mang tính tự nhiên, không muốn cũng
phải đảm nhận. Ví dụ như vai trò người con trong gia đình.
+ Vai trò lựa chọn: là vai trò do cá nhân chủ động, tích cực nắm lấy bằng nổ lực
cá nhân. Ví dụ vai trò người sinh viên trong lớp học.
+ Vai trò then chốt: thông thường trong phức hợp các vai trò, nổi lên một vai trò
then chốt – là kết quả của sự nỗ lực cá nhân và do sự phân công lao động. Ví dụ: vai
trò then chốt của anh A là giám đốc.
+ Vai trò tổng quát: là sự phối hợp các vai trò khác nhau trong một con người tạo
ra bộ mặt chung - đặc trưng cho người đó gọi là vai trò tổng quát.
- Mối quan hệ giữa vị thế xã hội và vai trò :
Quan hệ giữa vị thế xã hội và vai trò xã hội là một vấn đề rất được quan tâm kể
cả phương diện lý luận lẫn hoạt động thực tiễn. Giữa vị thế xã hội và vai trò xã hội có
sự tác động qua lại chặt chẽ với nhau.
Vai trò xã hội nảy sinh trên cơ sở vị thế đã được xác định. Hay nói cách khác, vị
thế xã hội là chỗ đứng của vai trò, vị thế quyết định vai trò. Vị thế nào vai trò ấy, đa vị
thế dẫn đến đa vai trò, vị thế càng cao thì vai trò càng quan trọng, vị thế thay đổi thì
vai trò cũng thay đổi. Vị thế và vai trò là hai mặt của một vấn đề.
1.3.3. Các nhóm xã hội
- Khái niệm nhóm xã hội
Nhóm xã hội là một tập hợp người có liên hệ với nhau về vị thế, vai trò, nhu cầu
lợi ích và những định hướng giá trị nhất định. Do đó, đòi hỏi các thành viên của nhóm
phải cùng cộng tác, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau.
Khác với đám đông, chỉ là một tập hợp người ngẫu nhiên, ít có sự ràng buộc về
quan hệ và trách nhiệm. Nhóm là những bộ phận hữu cơ, cơ bản, cấu thành nên xã hội,
các đặc trưng xã hội chủ yếu phụ thuộc vào bản chất và hoạt động của nhóm mà nó
bao chứa. Do vậy, nhóm xã hội là một đối tượng nghiên cứu quan trọng không phải chỉ
trong xã hội học mà còn của một số khoa học khác như triết học, tâm lý học Trong
thực tế, các mối quan hệ giữa các cá nhân chính là quan hệ giữa các nhóm xã hội, ở
nhiều ngành khoa học xã hội, thuật ngữ nhóm được dùng với cả hai nghĩa: nhóm quy
ước và nhóm thực. Nhóm quy ước là nhóm không tồn tại trong thực tế mà chỉ do con
người lập ra theo những dấu hiệu nhất định nào đó để nghiên cứu, hình thức nhóm
kiểu này được dùng phổ biến trong thống kê. Nhóm thực là nhóm dùng cho tập hợp
người tồn tại trong thực tế, trong xã hội học tồn tại nhiều cách phân loại nhóm thực
khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào từng loại tiêu chí mà người nghiên cứu lựa chọn.
- Phân loại nhóm
Có nhiều cách phân loại nhóm khác nhau, tuỳ vào chức năng hoạt động, cấu trúc
nhóm, mục đích hoạt động mà phân chia theo các dạng nhóm khác nhau. Xét theo
quan hệ của các thành vi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkl0039_p1_3989.pdf