Suy nghĩ vềchuyện vô sinh của người châu Á còn r ất nặng nề. Cưới
nhau vềmà hai, ba năm chưa có bầu là lời ra tiếng vào rất mệt mỏi, nhất là
đối với người phụnữ. Trong gia đình chồng thì đầy áp lực, ra bên ngoài dư
luận xì xào, xét nét, có ngưới còn ác miệng chê cười: “Ai kêu ởác quá nên
không con”.
Có những cặp vợchồng sống trong gây gổ, hận thù nhau cảmột đời
chỉvì chuyện không con. Nhưng có những người vợvì giữtiếng cho chồng,
chị u đựng một mình suốt bao năm dù gia đìnhchồng đổlỗi hết cho mình,
đến mức phải bỏ xứ mà đi. Căng thẳng, sợ hãi tr ước dư luận xã hội về
chuyện vô sinh là nguyên nhân chính làm tan vỡhạnh phúc biết bao gia đình.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Vô sinh là tại ở ác?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vô sinh là tại ở ác?
Suy nghĩ về chuyện vô sinh của người châu Á còn rất nặng nề. Cưới
nhau về mà hai, ba năm chưa có bầu là lời ra tiếng vào rất mệt mỏi, nhất là
đối với người phụ nữ. Trong gia đình chồng thì đầy áp lực, ra bên ngoài dư
luận xì xào, xét nét, có ngưới còn ác miệng chê cười: “Ai kêu ở ác quá nên
không con”...
Có những cặp vợ chồng sống trong gây gổ, hận thù nhau cả một đời
chỉ vì chuyện không con. Nhưng có những người vợ vì giữ tiếng cho chồng,
chịu đựng một mình suốt bao năm dù gia đình chồng đổ lỗi hết cho mình,
đến mức phải bỏ xứ mà đi. Căng thẳng, sợ hãi trước dư luận xã hội về
chuyện vô sinh là nguyên nhân chính làm tan vỡ hạnh phúc biết bao gia đình.
Tại anh và tại em
Nói theo dân gian, “vô sinh” là khi hai vợ chồng ăn ở với nhau một
thời gian mà không có con. Nôm na hơn, “vô sinh” là hết đường sinh con cái.
Trong y học, các bác sĩ thích dùng từ “hiếm muộn” hơn vì nó có nghĩa là
còn hy vọng, còn chữa được. Nói cách khác, y học chỉ gọi “vô sinh” khi
người vợ không thể có trứng hoặc người chồng không thể sản xuất tinh trùng,
còn các trường hợp khác vẫn có cơ may có con, nên được gọi là hiếm muộn.
Một cặp vợ chồng được xem là hiếm muộn nếu như ăn ở với nhau thường
xuyên trong vòng một năm, không dùng bất cứ biện pháp tránh thai nào, mà
vẫn không có thai. Nếu như người vợ trên 35 tuổi, thời gian này rút xuống
còn sáu tháng.
Trước đây và ngay cả bây giờ, nhiều người vẫn cho rằng vô sinh là do
người vợ. Bởi khi hai vợ chồng sinh hoạt bình thường, chồng vẫn quan hệ và
xuất tinh bình thường, nếu không có con thì chắc chắn là tại “đối tác”. Thật
ra không phải như vậy. Tinh dịch chỉ là một chất lỏng, trong đó có nước,
nhiều chất khác nhau và có hàng triệu triệu con tinh trùng bé li ti mà chỉ nhìn
thấy được nhờ kính hiển vi. Điều quan trọng là phải có tinh trùng chứ không
phải chỉ có tinh dịch. Nhiệm vụ của tinh trùng là bơi đến gặp trứng, chui vào
trong trứng để làm trứng thụ tinh. Sau khi đã thụ tinh thì trứng sẽ phát triển
thành phôi. Phôi này đi vào trong lòng tử cung để làm tổ, phát triển thành
thai, sau 40 tuần, em bé sẽ ra đời. Như vậy, để có con thì cần phải có trứng
của vợ và tinh trùng của chồng, nếu chồng không có tinh trùng hay tinh
trùng yếu, không thể thụ tinh trứng được thì vợ chồng bị hiếm muộn hoặc vô
sinh. Qua nhiều cuộc khảo sát, các nhà khoa học đã phát hiện cứ 100 cặp vợ
chồng bị vô sinh thì có 50 cặp là do người vợ bị trục trặc, 30 cặp là do người
chồng và 20 cặp là do cả hai người đều có vấn đề. Như vậy, hai vợ chồng bị
vô sinh thì có thể do vợ, có thể do chồng, hay cũng có thể cả hai.
Chuẩn bị tâm lý kiên trì chịu đựng
Để chữa vô sinh, điều cần nhất là phải đồng vợ, thuận chồng, và cả hai
cùng phải kiên trì, vì thời gian điều trị có khi kéo dài nhiều năm. Điều trị vô
sinh phải có sức chịu đựng tâm lý dữ dội không chỉ phía bệnh nhân mà còn
cả bác sĩ. Bởi giáo dục y khoa của chúng ta cũng rất thiếu thông tin nên đòi
hỏi người bác sĩ phải trao đổi cụ thể, chuyên sâu cho từng người bệnh,
không chỉ về bệnh lý mà còn cả tâm lý. Mặc dù chi phí thụ tinh trong ống
nghiệm tại Việt Nam thuộc loại thấp nhất trên thế giới (chi phí cho một ca
trung bình khoảng 40 triệu đồng), tỷ lệ thành công ở một số trung tâm của
Việt Nam đạt từ 35 – 40% (tỷ lệ có thai trung bình trên thế giới, theo các báo
cáo của Mỹ và châu Âu là vào khoảng 30 – 35%) nhưng chúng ta vẫn còn
60% thất bại. Nghĩa là gặp thất bại mỗi ngày. Đó cũng là day dứt của chúng
tôi và luôn dặn lòng không bao giờ được thoả mãn với công việc mình đã
làm được. Có lần, tôi nhận được một bức thư viết tay, chữ rất đẹp, gởi qua
đường bưu điện. Chị kể hai vợ chồng là công nhân viên ở tỉnh Trà Vinh, bị
thai ngoài tử cung phải cắt hai vòi trứng, muốn có con chỉ còn cách thụ tinh
ống nghiệm. Không có tiền, chị phải thức từ 2h sáng nấu xôi bán đến 8h lại
tiếp tục vào cơ quan, anh thì chạy xe ôm ngoài giờ để lấy tiền sinh sống.
Toàn bộ tiền lương cả hai dành dụm để đi điều trị. Một trường hợp khác,
một cặp vợ chồng người dân tộc Tày quê ở tận Lạng Sơn tới tìm tôi vừa
khóc, vừa xin được điều trị cho đến khi nào có con mới về, vì đã bị cả buôn
hắt hủi, xa lánh, gọi là “ma độc” của làng. Qua chẩn đoán, tôi phát hiện
người vợ bị tắc vòi trứng và liền cho thụ tinh trong ống nghiệm. Kết quả là
anh chị đã sinh một cháu gái rất kháu khỉnh.
Không chỉ bệnh nhân trong nước, nhiều người nước ngoài cũng đã tìm
tới Việt Nam để chữa bệnh vô sinh. Mới đây thôi, một cặp vợ chồng người
Anh đã khá lớn tuổi ẵm cậu con trai rất dễ thương đến tìm tôi, nói trong
nước mắt: “Mấy chục năm nay, vợ chồng tôi sống chung với nhau không
một ngày nào là không suy nghĩ làm sao có được một đứa con. Cảm ơn chị,
cảm ơn Việt Nam”. Nhìn những em bé sinh ra trong nước mắt, nụ cười như
thế, tôi thấy mình như được tiếp thêm sức để dấn thân sâu hơn vào nghiên
cứu những kỹ thuật mới để giúp cho nhiều chị em được giải oan: chưa sinh
được con không phải vì ở ác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 48_1966.pdf