Mục tiêu: (1) Xác định tần suất, mức độ nặng của viêm thực quản trào ngược (VTQTN), và (2) đánh giá
mối liên quan giữa VTQTN với nhiễm H. pylori ở các bệnh nhân có biểu hiện bệnh đường tiêu hóa trên chưa
từng được điều trị.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 203 bệnh nhân. Nội soi tiêu hóa trên
được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu. VTQTN được chẩn đoán và đánh giá mức độ
nặng theo phân loại Los Angeles. Nhiễm H. pylori được chẩn đoán bằng hai phương pháp là thử nghiệm urease nhanh dựa trên mẫu mô sinh thiết và mô bệnh học. Bệnh nhân được xem là nhiễm H. pylori nếu ít nhất một trong hai xét nghiệm nêu trên dương tính.
Kết quả: Tỉ lệ VTQTN ở bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa trên chưa từng được điều trị là 10,9%. Có 10%
trường hợp VTQTN phối hợp với loét dạ dày – tá tràng. Tất cả các trường VTQTN trong nghiên cứu đều ở mức độ nhẹ với tỉ lệ độ A và độ B lần lượt là 90,9% (20/22) và 9,1% (2/22). Bệnh nhân nhiễm H. pylori ít bị VTQTN hơn so với bệnh nhân không nhiễm H. pylori (p =0,004, OR = 0,2 (KTC95%, 0,07 – 0,6)).
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 761 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Viêm thực quản trào ngược ở bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa trên bệnh nhân chưa từng điều trị và mối liên quan với nhiễm h. pylori, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 578
VIÊM THỰC QUẢN TRÀO NGƯỢC Ở BỆNH NHÂN CÓ TRIỆU CHỨNG
TIÊU HÓA TRÊN BỆNH NHÂN CHƯA TỪNG ĐIỀU TRỊ
VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI NHIỄM H. PYLORI
Quách Trọng Đức*
TÓM TẮT
Mục tiêu: (1) Xác định tần suất, mức độ nặng của viêm thực quản trào ngược (VTQTN), và (2) đánh giá
mối liên quan giữa VTQTN với nhiễm H. pylori ở các bệnh nhân có biểu hiện bệnh đường tiêu hóa trên chưa
từng được điều trị.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 203 bệnh nhân. Nội soi tiêu hóa trên
được thực hiện trên tất cả các bệnh nhân tham gia nghiên cứu. VTQTN được chẩn đoán và đánh giá mức độ
nặng theo phân loại Los Angeles. Nhiễm H. pylori được chẩn đoán bằng hai phương pháp là thử nghiệm urease
nhanh dựa trên mẫu mô sinh thiết và mô bệnh học. Bệnh nhân được xem là nhiễm H. pylori nếu ít nhất một
trong hai xét nghiệm nêu trên dương tính.
Kết quả: Tỉ lệ VTQTN ở bệnh nhân có triệu chứng tiêu hóa trên chưa từng được điều trị là 10,9%. Có 10%
trường hợp VTQTN phối hợp với loét dạ dày – tá tràng. Tất cả các trường VTQTN trong nghiên cứu đều ở mức
độ nhẹ với tỉ lệ độ A và độ B lần lượt là 90,9% (20/22) và 9,1% (2/22). Bệnh nhân nhiễm H. pylori ít bị VTQTN
hơn so với bệnh nhân không nhiễm H. pylori (p =0,004, OR = 0,2 (KTC95%, 0,07 – 0,6)).
Kết luận: VTQTN khá thường gặp trong chăm sóc sức khỏe ban đầu nhưng hầu hết ở mức độ nhẹ. Có mối
liên quan nghịch giữa VTQTN với tình trạng nhiễm H. pylori.
Từ khóa: GERD, viêm thực quản trào ngược, Helicobacter pylori
ABSTRACT
EROSIVE REFLUX ESOPHAGITIS IN NAÏVE PATIENTS WITH UPPER GASTROINTESTINAL
SYMPTOMS AND ITS ASSOCIATION WITH H. PYLORI INFECTION
Quach Trong Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 578 ‐ 583
Aim: (1) To evaluate the prevalence and severity of erosive reflux esophagitis (ERD), and (2) to assess the
association between ERD and H. pylori in naïve patients with upper gastrointestinal symptoms.
Patients and methods: A cross‐sectional study was conducted on 203 naïve patients. Upper
gastrointestinal endoscopy was performed in every patient. H. pylori infection was diagnosed by rapid urease test
and pathological examination. Patients were considered H. pylori (+) if at least one of the two above‐mentioned
tests was positive.
Results: The rate of ERD was 10.9%. All of ERD were in mild grade (90.9% in grade A and 9.1% in grade
B). 10% of patients with ERD also had peptic ulcer disease. Patients with H. pylori infection were less likely to
suffer from ERD than those without H. pylori infection (p =0.004, OR = 0.2 (CI95%, 0.07 – 0.6)).
Conclusion: ERD is not uncommon in primary care and mostly in mild grade. There is a statistically
negative association between ERD and H. pylori infection.
Key words: GERD, erosive reflux disease, Helicobacter pylori
* Bộ môn Nội, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức ĐT: 0918080225. Email: vuqbao@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 579
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản
(BTNDDTQ) ngày càng phổ biến ở các nước
châu Á(21) Các số liệu về tần suất của bệnh chủ
yếu dựa trên khảo sát tần suất triệu chứng trào
ngược điển hình trên cộng đồng và tần suất
viêm thực quản do trào ngược (VTQTN) trên nội
soi. Sollano và cs (2007) thực hiện một nghiên
cứu tại Philippine ghi nhận tỉ lệ VTQTN tăng từ
2,9% lên 6,3% trong 6 năm từ 1997 ‐ 2003(15). Ho
và cs (2005) cũng ghi nhận tần suất VTQTN tại
Singapore tăng rệt trong khi tỉ lệ nhiễm H. pylori
giảm dần trong thời gian theo dõi 10 năm(2). Tại
Việt Nam, các nghiên cứu thực hiện tại cùng
một bệnh viện tại TP. HCM trong thời gian 15
năm cho thấy tần suất VTQTN tăng trong khi
tần suất loét dạ dày – tá tràng giảm đi rõ
rệt(9,12,13). Tuy nhiên cho đến hiện nay vẫn chưa
có nghiên cứu nào trong nước cho biết tỉ lệ thực
sự của VTQTN và mối liên quan giữa VTQTN
với nhiễm H. pylori ở các bệnh nhân chưa từng
được điều trị các triệu chứng tiêu hóa trên.
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích
(1) Xác định tần suất và mức độ nặng của
VTQTN; và (2) xác định mối liên quan giữa
VTQTN với nhiễm H. pylori ở bệnh nhân có biểu
hiện bệnh tiêu hóa trên nhưng chưa từng được
điều trị.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân ngoại trú tại BV Đại Học Y Dược
TP. HCM thỏa các tiêu chuẩn sau:
‐ Tiêu chuẩn chọn bệnh:
Tuổi ≥ 18
Có triệu chứng đường tiêu hóa trên
Được thực hiện nội soi tiêu hóa trên
‐ Tiêu chuẩn loại trừ:
Tiền sử đã làm xét nghiệm chẩn đoán và /
hoặc điều trị tiệt trừ H. pylori.
Chưa từng được điều trị bệnh đường tiêu
hóa trên.
Có dùng thuốc ức chế bơm proton, kháng
thụ thể H2, kháng sinh, bismuth ≤ 4 tuần.
Tiền căn phẫu thuật đường tiêu hóa trên
hoặc ung thư đường tiêu hóa trên.
Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, với
phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Cỡ mẫu
được tính theo công thức:
( )
2
2
2/1 1
d
ppZn −×= −α
Trong đó: n là cỡ mẫu, chọn d (độ chính
xác tuyệt đối mong muốn) là 0,05; α = 0,05
tương ứng với Z1‐α/2 = 1,96; p =0,149 là tỉ lệ ước
đoán của quần thể, được tính dựa trên tỉ lệ
VTQTN theo nghiên cứu trước đây của chúng
tôi(11). Áp dụng vào công thức trên tính được
cỡ mẫu tối thiểu n = 197.
Phương pháp tiến hành
Tất cả bệnh nhân tham gia nghiên cứu được
thực hiện nội soi tiêu hóa trên bằng máy nội soi
Olympus Video Exera GIF‐160 hoặc GIF‐150Q.
Trên nội soi ghi nhận các tổn thương ở thực
quản, dạ dày và tá tràng. Ở mỗi bệnh nhân, chẩn
đoán nhiễm H. pylori được đánh giá đồng thời
bằng xét nghiệm urease nhanh dựa trên mẫu mô
sinh thiết và xét nghiệm mô bệnh học.
Xét nghiệm urease nhanh dựa trên mẫu
mô sinh thiết: một mẫu mô được lấy ở vùng
1/3 dưới thân vị phía bờ cong lớn, phía trên
đường ranh giới thân‐hang vị khoảng 2cm. Vị
trí sinh thiết này đã được chứng minh là giúp
thử nghiệm urease dựa trên mẫu mô sinh thiết
đạt độ nhạy chẩn đoán H. pylori tối ưu(10). Chế
phẩm dùng cho thử nghiệm này trong nghiên
cứu của chúng tôi là PyloriTek (Serim
Research Corp., Elkhart, Ind.) có độ nhạy 90‐
98,5% vả độ chuyên biệt 97‐100%(3,7).
Xét nghiệm mô bệnh học: hai mẫu mô được
sinh thiết từ vùng giữa hang vị và giữa thân vị
phía bờ cong lớn. Trên giải phẫu bệnh nhuộm
Giemsa để đánh giá tình trạng nhiễm H. pylori.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 580
Tiêu chuẩn chẩn đoán sử dụng trong
nghiên cứu
Mức độ VTQTN được đánh giá theo phân
loại Los‐Angeles(16).
Loét hoặc sẹo loét dạ dày – tá tràng đều
được xếp chung vào nhóm loét dạ dày – tá tràng
vì bệnh nhân trong nghiên cứu chưa từng có
tiền sử điều trị H. pylori và do tính chất bệnh loét
dạ dày – tá tràng có thể tự lành và tái phát theo
chu kỳ nếu không điều trị nguyên nhân. Bệnh
nhân được xem là có nhiễm H. pylori nếu kết quả
PyloriTek (+) trong vòng 1 giờ và / hoặc trên mô
bệnh học quan sát thấy H. pylori.
Quản lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để quản lý số
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê mô
tả để tính trung bình và tỉ lệ; phép kiểm χ2 để
khảo sát mối liên quan giữa hai biến định tính
và hồi qui đa biến để xác định các yếu tố nguy
cơ của VTQTN.
KẾT QUẢ
Từ tháng 07 đến tháng 12 năm 2012, chúng
tôi có 203 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn tham gia
nghiên cứu với tuổi trung bình là 36 ± 11 (nhỏ
nhất 18, lớn nhất 76). Có 57,6% (117/203) bệnh
nhân nữ và 47,4% (86/203) bệnh nhân nam. Tỉ lệ
nam:nữ là 1:1,36. Tỉ lệ nhiễm HP của nhóm
nghiên cứu là 56,2% (114/203).
Đặc điểm nội soi và tỉ lệ nhiễm
Helicobacter pylori trong các thể bệnh
Tỉ lệ VTQTN trong nghiên cứu là 10,9%
(22/203) trong đó 9,1% (2/22) trường hợp có kết
hợp đồng thời với loét dạ dày – tá tràng (bảng
1). Tất cả các trường hợp VTQTN trong nghiên
cứu đều ở mức độ nhẹ theo phân loại Los
Angeles với tỉ lệ bệnh nhân có độ A và B lần lượt
là 90,9% (20/22) và 9,1% (2/22). Tỉ lệ nhiễm H.
pylori theo từng dạng tổn thương trên nội soi
được trình bày ở bảng 2. Nếu không tính 2
trường hợp có tổn thương phối hợp VTQTN và
loét dạ dày – tá tràng, chúng tôi có được kết quả
về tỉ lệ nhiễm H. pylori trong các thể bệnh được
trình bày ở biều đồ 1.
Bảng 1: Đặc điểm nội soi của nhóm nghiên cứu
Đặc điểm tổn thương
trên nội soi
n %
Bình thường 7 3,4
Viêm dạ dày – tá tràng 152 74,9
Loét / sẹo loét dạ dày 5 2,5
Loét / sẹo loét tá tràng 17 8,4
VTQTN 20 9,9
VTQTN và loét dạ dày – tá tràng 2 1
Tổng cộng 203 100
Bảng 2: Tỉ lệ nhiễm H. pylori theo dạng tổn thương
trên nội soi
Tỉ lệ HP nhiễm tính riêng
theo tổn thương trên nội
soi
n %
Bình thường 1/7 14,3
VTQTN 5/20 25
Viêm dạ dày – tá tràng 86/152 56,6
Loét / sẹo loét dạ dày 4/5 80
Loét / sẹo loét tá tràng 16/17 94,1
VTQTN kết hợp loét dạ dày –
tá tràng 2/2 100
Biểu đồ 1: Tỉ lệ nhiễm H. pylori theo dạng tổn
thương trên nội soi tiêu hóa trên
Liên quan giữa VTQTN với tuổi, giới và
Helicobacter pylori
Chúng tôi gộp bệnh nhân trong nghiên cứu
thành ba nhóm: Nhóm 1 bao gồm các bệnh nhân
có kết quả nội soi bình thường hoặc viêm dạ dày
– tá tràng. Nhóm này tương ứng với rối loạn tiêu
hóa chức năng hoặc BTNDDTQ không có tổn
thương trên nội soi. Nhóm 2 gồm các bệnh nhân
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 581
có loét hoặc sẹo loét ở dạ dày – tá tràng và nhóm
3 gồm các bệnh nhân bị VTQTN. Nếu lấy nhóm
1 làm nhóm tham chiếu thì tỉ số chênh về nhiễm
H. pylori ở nhóm loét dạ dày ‐ tá tràng cao gấp
8,27 (p=0,001, KTC95% 1,87 – 36,6) và nhóm
VTQTN thấp hơn và chỉ bằng 0,27 (p=0,017,
KTC95% 0,09 – 0,79).
Trong nghiên cứu này có 2 trường hợp đồng
thời có tổn thương VTQTN và loét dạ dày – tá
tràng nên chúng tôi không đưa vào phân tích
mối liên quan. Dựa trên kết quả phân tích đơn
biến chúng tôi có kết quả ở bảng 3.
Bảng 3: Mối liên quan giữa VTQTN với tuổi, giới và
tình trạng nhiễm H. pylori
Viêm thực quản do
trào ngược p
Có Không
Giới (nam/nữ) 12/8 72/109 0,068
Tuổi (trung bình ± độ
lệch chuẩn) 38,3 ± 9,8 35,7 ± 11 0,44
H. pylori (+) 5/20 107/181 0,004
Khi phân tích hồi qui đa biến chúng tôi ghi
nhận có 2 yếu tố có liên quan độc lập với
VTQTN là giới tính nam (p=0,034, OR = 2,9
(KTC95%, 1,1 – 7,8)); và nhiễm H. pylori (p=0,004,
OR = 0,2 (KTC95%, 0,07 – 0,6)).
BÀN LUẬN
Tỉ lệ VTQTN và loét dạ dày – tá tràng
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ
VTQTN là 10,9% và tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng là
11,9%. Số liệu theo nghiên cứu được lấy mẫu
trong năm 2011 của chúng tôi tại cùng bệnh viện
cho thấy tỉ lệ VTQTN cao hơn (16,9%) và tỉ lệ
loét dạ dày – tá tràng thấp hơn (6%)(12). Một đặc
điểm khác là tất cả các trường hợp VTQTN được
ghi nhận trong nghiên cứu này đều ở mức độ
nhẹ trong khi các nghiên cứu trong nước thực
hiện tại các bệnh viện tuyến sau cho thấy tỉ lệ
VTQTN mức độ nặng từ 1,9 – 5,9%(6, 12, 13, 19). Điều
này có thể lí giải là do đối tượng bệnh nhân
trong các nghiên cứu trước đây bao gồm cả
những trường hợp đã từng được điều trị ở các
bệnh viện tuyến trước nhưng không thành công.
VTQTN có khuynh hướng dễ tái phát khi ngưng
thuốc, đặc biệt là các trường hợp VTQTN mức
độ nặng. Trong khi đó, tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng
(với nguyên nhân thường gặp nhất là H. pylori)
có khuynh hướng giảm một khi đã tiệt trừ thành
công. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên là số
liệu thống kê tại các bệnh viện tuyến trên có
khuynh hướng cho tỉ lệ VTQTN cao hơn trong
khi tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng thấp hơn so với các
đơn vị y tế cơ sở, đồng thời tỉ lệ VTQTN mức độ
nặng ở tại các bệnh viện tuyến sau cũng sẽ cao
hơn. Khi hồi cứu y văn trong nước, chúng tôi
chưa ghi nhận nghiên cứu nào cho thấy số liệu
thực tế tại các tuyến y tế ban đầu. Tuy nghiên
cứu này được tiến hành tại bệnh viện ĐHYD TP
HCM là một bệnh viện tuyến sau, chúng tôi cho
rằng với tiêu chuẩn chọn bệnh chỉ bao gồm các
bệnh nhân chưa từng được điều trị bệnh đường
tiêu hóa trên thì số liệu của nghiên cứu sẽ gần
giống như tại tuyến y tế cơ sở. Đặc điểm
VTQTN mức độ nhẹ của nhóm bệnh nhân tham
gia nghiên cứu này là một cơ sở lý luận quan
trọng cho chiến lược điều trị duy trì kiểu ngắt
quãng hoặc theo nhu cầu vốn thuận tiện và tiết
kiệm hơn, phù hợp với VTQTN ở châu Á(21).
Liên quan giữa nhiễm Helicobacter pylori
và các thể bệnh trên nội soi
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ
lệ nhiễm H. pylori ở bệnh nhân loét dạ dày và
loét tá tràng trong nghiên cứu lần lượt là 80% và
94,1% và khi tính chung là 90,9%. Như vậy, mặc
dù nghiên cứu tại ở một số quốc gia gần đây ghi
nhận rằng tỉ lệ loét dạ dày – tá tràng không do
H. pylori có xu hướng ngày càng tăng(8), số liệu
hiện tại ở nước ta cho thấy tỉ lệ nhiễm H. pylori
trong các thể bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng
gần như không thay đổi gì so với trước đây. Do
đó, trong các trường hợp phát hiện bệnh nhân
có loét dạ dày – tá tràng trên nội soi nhưng kết
quả xét nghiệm chẩn đoán H. pylori (‐), cần thận
trọng xem xét lại các yếu tố gây âm tính giả của
phương pháp chẩn đoán và trong trường hợp
cần thiết có thể cần phải phối hợp với một
phương pháp chẩn đoán H. pylori thứ hai.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 582
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
nhiễm H. pylori liên quan với giảm nguy cơ
VTQTN gấp 5 lần. Đây là nghiên cứu đầu tiên
trong nước cho thấy mối liên quan này. Một số
nghiên cứu trước đây tại các cộng đồng khác
cũng cho thấy có mối liên quan nghịch giữa
nhiễm H. pylori và VTQTN. Chung và cs (2011)
thực hiện một nghiên cứu bệnh chứng có kết
xứng hai yếu tố tuổi và giới trên 5,616 trường
hợp kiểm tra sức khỏe được làm nội soi tiêu hóa
trên và chẩn đoán nhiễm H. pylori bằng xét
nghiệm huyết thanh học tại Hàn Quốc(1). Kết
quả của nghiên cứu này cho thấy tần suất
nhiễm H. pylori ở nhóm bệnh nhân VTQTN
thấp hơn nhóm bệnh nhân không bị VTQTN
(38,4% so với 58,2%, p <0,001. Tỉ lệ nhiễm H.
pylori ở nhóm VTQTN mức độ nặng cũng thấp
hơn so với nhóm VTQTN mức độ nhẹ (22,4% ở
nhóm có VTQTN độ C và D, so với 34,3% ở
nhóm độ A và B, p<0,001). Tương tự, Shirota và
cs (1999) ghi nhận tại Nhật tỉ lệ nhiễm H. pylori
ở nhóm bệnh nhân không bị BTNDDTQ,
VTQTN mức độ nhẹ, và VTQTN mức độ nặng
khác biệt có ý nghĩa thống kê, giảm dần ở 3
nhóm với tỉ lệ lần lượt là 60,7%, 47,8% và 14,8%
(p < 0,05)(14). Nghiên cứu của Shirota còn cho
thấy nhóm bệnh nhân VTQTN có mức độ viêm
teo niêm mạc dạ dày nhẹ hơn so với nhóm bệnh
nhân không bị BTNDDTQ. Điều này được lý
giải là do nhiễm H. pylori làm tăng tỉ lệ viêm teo
niêm mạc dạ dày. Hệ quả là dịch vị sẽ ít toan
hơn nên ít có khả năng gây tổn thương niêm
mạc thực quản ngay cả khi bị trào ngược lên
thực quản. Một số nghiên cứu còn cho thấy mối
liên quan này rõ rệt hơn khi xét riêng chủng H.
pylori có sinh CagA(17,18). Chủng H. pylori CagA
(+) có độc tính và nguy cơ cao gây viêm toàn bộ
dạ dày. Một khi tình trạng viêm thân vị xảy ra,
tổn thương tê bào thành ở vùng thân vị sẽ dẫn
đến độ toan của dịch vị giảm đi. Tuy trong
nghiên cứu của chúng tôi không đánh giá về
kiểu gen của H. pylori nhưng nghiên cứu trong
nước cho thấy hơn 90% chủng H. pylori ở Việt
Nam là chủng sinh CagA(4). Điều này góp phần
lý giải phát hiện của chúng tôi về mối liên quan
giữa VTQTN và nhiễm H. pylori trong nghiên
cứu này.
Cuối cùng, một vấn đề đặt ra cho bác sĩ lâm
sàng là có nên tiệt trừ H. pylori hay không nếu
phát hiện trên bệnh nhân BTNDDTQ. Wu và cs
(2004) ghi nhận sau khi tiệt trừ H. pylori thì tình
trạng BTNDDTQ trở nên khó kiểm soát hơn, có
lẽ là do sự hồi phục của các tế bào thành ở vùng
thân vị gây ra sự chế tiết acid dịch vị nhiều
hơn(20). Tuy nhiên, chúng ta đều biết rằng trên
thực tế tại Việt Nam dạng bệnh lý ác tính của
đường tiêu hóa trên thường gặp nhất là ung thư
dạ dày chứ không phải là ung thư biểu mô
tuyến của thực quản. Hơn thế nữa, nhiễm chủng
H. pylori sinh CagA thì có nguy cơ bị ung thư dạ
dày cao hơn trong khi hầu hết các trường hợp
BTNDDTQ ở Việt Nam và các nước châu Á nói
chung gây triệu chứng nhưng hiếm khi nào gây
biến chứng nặng(11,21). Gần đây đồng thuận
Maastricht IV của Châu Âu cũng đưa ra khuyến
cáo rằng việc điều trị lâu dài bằng thuốc ức chế
bơm proton ở những bệnh nhân BTNDDTQ có
nhiễm H. pylori nhưng không được điều trị tiệt
trừ có thể làm nặng thêm tình trạng teo niêm
mạc dạ dày _ tiền đề của ung thư dạ dày(5). Do
đó, quan điểm của chúng tôi là vẫn nên điều trị
tiệt trừ H. pylori ở các bệnh nhân BTNDDTQ,
đặc biệt là khi dự đoán sẽ cần phải điều trị bằng
thuốc ức chế bơm proton lâu dài.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ VTQTN ở bệnh nhân có triệu chứng
tiêu hóa trên chưa từng được điều trị là 10,9%,
trong đó có 1% kết hợp với loét dạ dày – tá
tràng. Tất cả các trường VTQTN đều ở mức độ
nhẹ. Có mối liên quan nghịch có ý nghĩa thống
kê giữa nhiễm H. pylori và VTQTN.
Lời cám ơn: Chúng tôi xin cám ơn sự hỗ trợ của Bệnh Viện
Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh và công ty Astra Zeneca
Việt Nam để hoàn thành bài báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung SJ, Lim SH, Choi J, et al (2011). Helicobacter pylori
Serology Inversely Correlated With the Risk and Severity of
Reflux Esophagitis in Helicobacter pylori Endemic Area: A
Matched Case‐Control Study of 5,616 Health Check‐Up
Koreans. J Neurogastroenterol Motil;17(3):267.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tiêu Hóa 583
2. Ho KY, Chan YH, Kang JY (2005). Increasing trend of reflux
esophagitis and decreasing trend of Helicobacter pylori
infection in patients from a multiethnic Asian country. Am J
Gastroenterol; 100: 1923–8.
3. Laine L, et al (1996), Prospective comparison of commercially
available rapid urease tests for the diagnosis of Helicobacter
pylori, Gastrointest Endosc; 44:523‐6.
4. Nguyen TL, Uchida T, Tsukamoto Y, et al (2010). Helicobacter
pylori infection and gastroduodenal diseases in Vietnam: a
cross‐sectional, hospital‐based study. BMC
Gastroenterology, 10:114
5. Malfertheiner P, Megraud F, OʹMorain CA, et al (2012).
Management of Helicobacter pylori infection‐‐the Maastricht
IV/ Florence Consensus Report. Gut.;61(5):646‐64.
6. Nguyễn Duy Thắng (2010). Chẩn đoán và điều trị trào ngược
dạ dày – thực quản (GERD). Y Học Thực Hành; 714: 111 –
113.
7. Nishikawa K, et al (2000), A prospective evaluation of new
rapid urease tests before and after eradication treatment of
Helicobacter pylori, in comparison with histology, culture and
13C‐urea breath test, Gastrointest Endosc; 51:164‐8.
8. Peura DA (2000). The problem of Helicobacter pylori‐negative
idiopathic ulcer disease. Baillieres Best Pract Res Clin
Gastroenterol; 14: 109–17
9. Phạm Hoàng Phiệt, Nguyễn Đình Hối, Trần Kiều Miên,
Trương Bá Trung (1996). Nhiễm Helicobacter pylori trong bệnh
lý viêm loét dạ dày‐tá tràng. Nội khoa; 2: 16 – 20.
10. Quach DT (2006). Optimal Gastric Biopsy Site for Helicobacter
pylori diagnosis by using Rapid Urease Test, Helicobacter; 11
(Suppl. 2): 38.
11. Quach TD, Tran KM (2007). Endoscopic esophagitis in
Vietnamese patients with dyspepsia symptoms: prevalence,
spectrum and symptoms. J Gastroenterol Hepatol; (22): A138.
12. Quách Trọng Đức, Hồ Xuân Linh (2012). Giá trị của bộ câu
hỏi GERDQ trong chẩn đoán các trường hợp bệnh trào ngược
dạ dày – thực quản có hội chứng thực quản. Y Học TP Hồ Chí
Minh, phụ bản của Tập 16, chuyên đề Nội Khoa I: 15 – 22.
13. Quách Trọng Đức, Trần Kiều Miên (2005). Viêm trào ngược
dạ dày – thực quản trên nội soi ở bệnh nhân Việt Nam có biểu
hiện dyspepsia: tần suất, đặc điểm lâm sàng và nội soi. Y Học
TP Hồ Chí Minh; 9 (phụ bản của số 1): 35 – 39.
14. Shirota T, Kusano M, Kawamura O, et al (1999). Helicobacter
pylori infection correlates with severity of reflux esophagitis:
with manometry findings. J Gastroenterol; 34(5): 553.
15. Sollano JD, Wong SN, Andal‐Gamutan T, et al (2007). Erosive
esophagitis in the Philippines: a comparison between two
time periods. J Gastroenterol Hepatol; 22: 1650–5.
16. Tạ Long (2005). Dịch tễ học, chẩn đoán và xử trí bệnh trào
ngược dạ dày – thực quản (GERD). Đặc San Tiêu Hóa Việt
Nam; số 3: 5 ‐14.
17. Vaezi MF, Falk GW, Peek RM, et al (2000). CagA‐positive
strains of Helicobacter pylori may protect against Barrettʹs
esophagus. Am J Gastroenterol; 95(9): 2206.
18. Vicari JJ, Peek RM, Falk GW, et al (1998). The seroprevalence
of cagA‐positive Helicobacter pylori strains in the spectrum of
gastroesophageal reflux disease. Gastroenterology; 115(1): 50.
19. Võ Hồng Minh Công (2011). Khảo sát các yếu tố nguy cơ của
viêm thực quản trào ngược. Y Học TP Hồ Chí Minh (chuyên
đề hội nghị Khoa học Kỹ thuật BV Nhân Dân Gia Định);
15(4): 18 – 22.
20. Wu JC, Chan FK, Ching JY, et al (2004). Effect of Helicobacter
pylori eradication on treatment of gastro‐oesophageal reflux
disease: a double blind, placebo controlled, randomised trial.
Gut; 53(2):174‐9.
21. Wu JC (2008). Gastroesophageal reflux disease: An Asian
perspective. J Gastroenterol Hepatol; 23 (12): 1785–1793
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 578_0414.pdf