Mục đích chính của chương này là để cung cấp một khung công việc cho việc ra các quyết định có
hiệu quả về sự lựa chọn và sử dụng các phương tiện cho việc dạy và học. Khung công việc được
sử dụng là mô hình SECTIONS, viết tắt các ký tự đầu tiếng Anh của:
• S tudents - sinh viên
• E ase of use - Dễ sử dụng
• C osts - Chi phí
• T eaching functions - Các chức năng dạy học
• I nteraction - Tương tác
• O rganisational issues - Các vấn đề về tổ chức
• N etworking - Kết nối mạng
• S ecurity and privacy - An toàn và tính riêng tư
Khi kết thúc chương này, bạn sẽ có khả năng chọn các phương tiện và công nghệ đúng thích hợp
cho bất kỳ chủ đề nào bạn có thể sẽ dạy, và có khả năng chứng minh cho quyết định của bạn
292 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Việc chọn và sử dụng các phương tiện trong giáo dục: Mô hình SECTIONS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hallenges of the new millennium Westport CT: Bergin and
Garvey
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 510/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
12.2 Sự phát triển và việc huấn luyện các giáo viên
và những người chỉ dẫn trong kỷ nguyên số
Hình 12.2 Một hội nghị chuyên đề phát triển giáo viên
12.2.1 Nhu cầu
Vào giữa tháng 8 ở hầu hết các nước bắc bán cầu, các hội nghị chuyên đề và hội thảo phát triển giáo
viên và phát triển nghề nghiệp của các giáo viên đã kết thúc, và tất cả mọi người đều hướng tới kỳ
nghỉ hè có được. Nhiều ngàn người sẽ học được cách sử dụng một hệ thống chụp bài giảng hoặc
quản lý học tập lần đầu tiên, và hàng trăm người khác sẽ được giới thiệu về các công nghệ mới như
các hồ sơ điện tử, học tập di động, và các tài nguyên giáo dục mở. Một số nhỏ hơn nhưng đáng kể
sẽ được giới thiệu về các phương pháp dạy học mới được xây dựng xung quanh tiềm năng của các
công nghệ mới. Tất cả những thứ tốt lành - và tất cả hoàn toàn không thích hợp cho các nhu cầu các
giáo viên và những người chỉ dẫn đang đối mặt trong kỷ nguyên số.
12.2.2 Mô hình phát triển nghề nghiệp bị phá vỡ
Trong các trường đại học, giáo viên được huấn luyện, thông qua con đường tiến sỹ, để làm nghiên
cứu, nhưng không có yêu cầu phải được huấn luyện trong các phương pháp dạy học. Tốt nhất, sự
phát triển giáo viên là tự nguyện cho giáo viên từng được chỉ định, và dù các sinh viên sau tốt
nghiệp đại học có quan tâm trong việc trải nghiệm với các công nghệ học tập hoặc chọn các khóa
học hoặc chương trình chuyên nghiệp trong việc dạy học thường không được khuyến khích một
cách có chủ ý từ những người giám sát họ khỏi làm như vậy, khi mà nó có thể làm trệch khỏi nghiên
cứu của họ. Sử dụng ngày một gia tăng các trợ giảng/giáo viên hợp đồng làm trầm trọng thêm vấn
đề (xem Phần 12.4). Đang còn trong hợp đồng, họ yêu cầu trả tiền cho bất kỳ sự huấn luyện nào,
nhưng các cơ sở thường miễn cưỡng huấn luyện các nhân viên hợp đồng, những người có lẽ sau đó
rời bỏ vào cuối hợp đồng và lấy sự huấn luyện và các kỹ năng của họ tới một đối thủ cạnh tranh.
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 511/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
Tình hình là hơi khó trong các trường cao đẳng 2 năm. Nhiều quyền tài phán (không phải tất cả) có
một Chương trình Cấp bằng cho Người chỉ dẫn cấp bang hoặc tỉnh mà vài trường cao đẳng yêu cầu
những người chỉ dẫn khi bổ nhiệm hoặc ngay sau đó. Tuy nhiên, nhiều chương trình đó còn chưa
được thích nghi để tính tới việc học tập trên trực tuyến, và có lẽ còn chưa có chương trình nào cập
nhật về việc học tập pha trộn. Tôi từng là một nhà quan sát bên ngoài cho một chương trình như vậy
trong một khoảng thời gian, và hầu như đã không có lưu ý nào về việc học tâp pha trộn hoặc trên
trực tuyến. Hầu hết các công nghệ được thảo luận trong chương trình này từng là cũ ít nhất 20 năm.
Sự thiếu huấn luện toàn diện và có hệ thống ở mức trước khi cung cấp dịch vụ đặt ra gánh nặng
không tương xứng lên sự phát triển nghề nghiệp đang diễn ra, điều là hiện đại nhất và biến đổi nhất
về cả số lượng và chất lượng. Trên hết tất cả, đây là một hệ thống tự nguyện hoàn toàn - nói cách
khác, các giáo viên hoặc những người chỉ dẫn có thể chọn không tham gia bất kỳ hội nghị chuyên
đề hoặc khóa học theo dịch vụ nào về việc dạy học, nếu họ quyết định - như hầu hết làm - rằng thời
gian phát triển nghề nghiệp của họ sẽ là tốt hơn bỏ ra trong việc tập trung vào nghiên cứu thay vì
việc dạy học. Christensen Hughes và Mighty (2010) viện lý rằng ít hơn 10% tất cả những người chỉ
dẫn trong tất cả các trường đại học tham gia các hoạt động phát triển nghề nghiệp được tập trung
vào cải thiện việc dạy học của họ, và giáo viên nào chọn thường là những người ít nhất cần sự huấn
luyện khi họ thường là những giáo viên xuất sắc rồi.
Cuối cùng, hầu hết các giáo viên và những người chỉ dẫn không dựa thực tế việc dạy học của họ
vào bằng chứng dựa vào kinh nghiệm hoặc nghiên cứu về tính hiệu quả của các tiếp cận khác.
Christensen Hughes và Mighty (2010) đã biên soạn một bộ sưu tập các nghiên cứu về các đối tượng
nghiên cứu trong các nghiên cứu về việc dạy và học trong giáo dục đại học. Trong chương mở đầu
những người biên soạn nêu:
'... các nhà nghiên cứu đã phát hiện thấy nhiều điều về việc dạy và học trong giáo dục đại
học, nhưng sự phổ biến và tiếp thu thông tin này còn hạn chế. Như vậy, ảnh hưởng của
nghiên cứu giáo dục lên thực hành dạy học của giáo viên và kinh nghiệm học tập của sinh
viên là không đáng kể'.
Trong cùng cuốn sách đó, Chritopher Knapper (cũng là của Đại học Queens) nêu (trang 229-230):
'Có bằng chứng kinh nghiệm đang gia tăng từ một loạt các cơ sở quốc tế rằng các thực tiễn
dạy học tràn lan trong giáo dục đại học không khuyến khích dạng học tập mà xã hội đương
thời đòi hỏi... Việc dạy học phần lớn vẫn là mô phạm, đánh giá công việc của sinh viên
thường là tầm thường, và chương trình giáo dục có khả năng nhiều hơn nhấn mạnh sự bao
phủ về nội dung hơn là có các kỹ năng rộng về cuộc sống...
[Tuy nhiên] có một số lượng ấn tượng các bằng chứng về các phương pháp dạy học và thiết
kế chương trình giáo dục ảnh hưởng như thế nào tới việc học tập sâu, tự chủ và có suy nghĩ.
Vâng hầu hết các giáo viên phần lớn không quan tâm tới sự uyên thâm này, và những thực
hành chỉ dẫn được truyền thống áp đảo thay vì bằng chứng nghiên cứu'.
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 512/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
Cuốn sách này đã chỉ ra rằng chúng ta không phải sáng tạo hoặc phát hiện ra những gì là cần thiết
để dạy học tốt trong kỷ nguyên số. Có một tài liệu được thiết lập tốt và các thực tiễn tốt nhất thường
được đồng thuận, vâng, như Christensen Hughes và Mighty đã chỉ ra, nhiều nếu không nói là đa số
các giáo viên và những người chỉ dẫn không nhận thức được hoặc tiếp tục bỏ qua các tiêu chuẩn đó.
12.2.3 Vì sao hệ thống cần thay đổi
Khi giáo dục đại học bị/được giới hạn cho một ít các sinh viên ưu tú, nơi mà giáo viên đã có được
mối quan hệ gần gũi, một - một với các sinh viên, là có khả năng để quản lý hoàn toàn có hiệu quả
mà không có huấn luyện chính quy nào trong việc dạy học. Điều đó không còn đúng ngày nay nữa.
Các giáo viên bị thách thức bởi các lớp học lớn, và các sinh viên không thuần nhất học theo các
cách thức khác nhau, với các kỹ năng và khả năng học tập khác nhau. Sự nhấn mạnh đang thay đổi
từ tri thức như là nội dung sang tri thức như là quy trình. Các phương pháp dạy học cần phải được
chọn sao cho sẽ phát triển được các kỹ năng và các năng lực cần thiết trong một xã hội dựa vào tri
thức, và trên đỉnh của tất cả điều này, công nghệ luôn thay đổi đòi hỏi những người chỉ dẫn phải có
các khung phân tích để giúp chọn và sử dụng các công nghệ phù hợp cho việc dạy học.
Đặc biệt, tác động sâu rộng của Internet lên sự uyên thâm, nghiên cứu, làm việc và giải trí đòi hỏi
sự cân nhắc lại chính các phương pháp dạy học của chúng ta, nếu chúng ta là những người sẽ phát
triển các kỹ năng và tri thức mà các sinh viên của chúng ta cần trong một xã hội dựa vào tri thức.
Điều này đòi hỏi việc huấn luyện toàn diện và có hệ thống những người chỉ dẫn của chúng ta, chứ
không phải một hệ thống phụ thuộc nặng vào việc lựa chọn, và rằng những thất bại để tưởng thưởng
cho sự xuất sắc thích đáng trong việc dạy học như được đo đếm bằng các tiêu chuẩn được yêu cầu
trong ngữ cảnh của ngày hôm nay.
Dịch chuyển sang việc học tập pha trộn, lai và hoàn toàn trên trực tuyến đòi hỏi một tiêu chuẩn học
tập cao hơn nhiều đối với các giáo viên và những người chỉ dẫn. Đây không chỉ là câu hỏi của việc
học tập cách sử dụng hệ thống quản lý học tập hay một chiếc iPad. Sử dụng công nghệ cần phải
được kết hợp với sự hiểu biết về cách các sinh viên học, cách các kỹ năng được phát triển, cách tri
thức được trình bày thông qua các phương tiện khác nhau và sau đó được xử lý, và cách những
người học sử dụng các giác quan khác nhau cho việc học tập. Nó ngụ ý việc xem xét các tiếp cận
khác nhau cho việc học tập, như xây dựng tri thức so với một mô hình truyền đạt việc dạy học, và
cách mà công nghệ làm việc tốt nhất với các tiếp cận đó. Trên hết tất cả, nó ngụ ý việc kết nối sử
dụng công nghệ cho các yêu cầu đặc thù của một lĩnh vực tri thức hoặc lĩnh vực chủ đề cụ thể.
Sự mở rộng trong việc học tập pha trộn và trên trực tuyến từng được tạo thuận lợi chủ yếu bằng việc
thiết lập các đơn vị hỗ trợ công nghệ học tập riêng biệt để hỗ trợ giáo viên và những người chỉ dẫn
không có kinh nghiệm hoặc các kỹ năng để dạy học trên trực tuyến. Dù điều này là cơ bản, nó sẽ là
đắt giá cao tới mức ngăn cấm tiếp tục mở rộng những đơn vị như vậy khi việc học tập pha trộn và
trên trực tuyến tiếp tục gia tăng (Bates và Sangrà, 2011). Là có hiệu quả hơn nhiều về chi phí để
cung cấp việc huấn luyện thích đáng trước khi phục vụ vào lúc ban đầu sao cho các đơn vị công
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 513/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
nghệ học tập có thể tập trung vào việc huấn luyện, phát triển nghề nghiệp và nghiên cứu và phát
triển trong các phương pháp dạy và học mới khi các công nghệ mới phát triển.
12.2.4 Điều gì cần phải được làm
Việc nhận diện vấn đề là dễ hơn nhiều so với việc sửa nó. Đặc biệt, văn hóa nhất là của các trường
đại học bảo vệ cho hệ thống hiện đang tồn tại. Sự tự do hàn lâm thường được sử dụng như một lý lẽ
cho tình trạng ban đầu, và các công đoàn trong hệ thống các trường cao đẳng khăng khăng trong
việc trả tiền cho những người chỉ dẫn cho bất kỳ thời gian nào được bỏ ra trong việc huấn luyện
vượt và cao hơn tải dạy học thông thường của họ. Như Bates và Sangrà (2011) đã chỉ ra, đây là vấn
đề hệ thống. Là khó cho một trường đại học, ví dụ, thay đổi vì sợ hãi rằng các nhà nghiên cứu trẻ
tuổi tốt nhất của họ sẽ chuyển sang các cơ sở khác nơi mà huấn luyện trong việc dạy học không
được đòi hỏi.
Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết thách thức này. Tôi đưa ra một chiến lược có khả năng
ở bên dưới.
12.2.4.1 Thừa nhận có vấn đề
Trước hết, phải thừa nhận và chấp nhận từ các lãnh đạo cơ sở, các giáo viên, những người chỉ dẫn,
các công đoàn thích hợp, các cơ sở đảm bảo chất lượng và các cơ quan cấp vốn nhà nước rằng có
một vấn đề chủ chốt ở đây. Việc phát triển các giáo viên có kỹ năng (và đó là những gì chúng ta cần
trong các trường phổ thông, cao đẳng và đại học) là cũng nhiều như sự phát triển kinh tế như vấn đề
giáo dục. Nếu chúng ta muốn mọi người với tri thức và các kỹ năng cần thiết trong kỷ nguyên số,
thì các giáo viên bản thân họ phải có tri thức về cách phát triển các kỹ năng như vậy, và đặc biệt
thừa nhận rằng các công nghệ học tập và việc học tập trên trực tuyến là các thành phần then chốt
trong phát triển các kỹ năng như vậy.
12.2.4.2 Bắt đầu trong các trường đại học
Là kinh tế và hiệu quả hơn nhiều để chuẩn bị những người chỉ dẫn đúng thích hợp ngay lúc bắt đầu
sự nghiệp của họ hơn là cố gắng để có được các đoạn lớn thời gian của họ cho việc huấn luyện ở
nửa đường hoặc cuối sự nghiệp của họ. Dù công nghệ sẽ thay đổi qua thời gian, thì những điều căn
bản cơ sở của việc dạy và học là khá ổn định. Vì thế vấn đề đó cần phải được xử trí ở mức trước khi
phục vụ. Đối với những người mong muốn làm việc như là các giáo viên trong các trường đại học,
chúng ta cần xem xét bằng cấp sau đại học và đặc biệt bằng tiến sỹ của họ, để đảm bảo rằng có thời
gian đúng thích hợp cho các khóa học về và thực hành trong việc dạy học sau trung học, hoặc phát
triển con đường song song cho việc phát triển các kỹ năng dạy học và nghiên cứu.
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 514/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
12.2.4.3 Áp dụng một tiếp cận hệ thống rộng lớn
Lý tưởng mà nói, Hội đồng các trường Đại học hoặc Cao đẳng bang hoặc tỉnh, hoặc các ban quản
trị các trường học, nên tập hợp cùng nhau và phát triển một hệ thống huấn luyện toàn diện cho tất cả
các giáo viên và đảm bảo rằng các chương trình như vậy được cập nhật liên tục. Tương tự, một kế
hoạch chung và tập hợp các tiêu chuẩn cần phải được thiết lập khắp một quyền tài phán cho việc
thuê mướn và thúc đẩy có liên kết với huấn luyện thích hợp trong việc dạy và học, thông qua sự
thiết lập các nhóm làm việc thích hợp có thể bao gồm những người chuyên nghiệp từ các đơn vị
công nghệ học tập và các văn phòng phát triển nghề nghiệp.
12.2.4.4 Thiết lập các tiêu chuẩn
Các nhóm làm việc về hệ thống rộng khắp nên đồng ý về một chương trình giáo dục 'cốt lõi', các
tiêu chuẩn tối thiểu, và các đo đếm hiệu năng cho huấn luyện trước khi phục vụ trong lĩnh vực dạy
và học. Các tiêu chuẩn đó nên bao gồm tri thức và các kỹ năng cần thiết đối với những người học
trong kỷ nguyên số. Không ai sẽ được thuê làm ở các vị trí mới có một thành phần dạy học chính
mà không có sự huấn luyện được thừa nhận trong dạy học, một khi hệ thống huấn luyện tồn tại.
Đối với sự phát triển nghề nghiệp trong thời gian đang phục vụ, một chiến lược có thể được yêu cầu
cho kế hoạch phát triển nghề nghiệp riêng rẽ cho từng giáo viên hoặc người chỉ dẫn được thảo luận
hàng năm giữa giáo viên và lãnh đạo phòng của họ. Kế hoạch này có thể bao gồm việc cập nhật
thường xuyên các phương pháp và công nghệ dạy học mới, tương tự với các chương trình phát triển
nghề nghiệp bắt buộc cho những người hành nghề y tế. Các kế hoạch phát triển nghề nghiệp giáo
dục bắt buộc sẽ là cần thiết cho các lĩnh vực chủ đề khác nhau.
12.2.4.5 Chính phủ như là cơ quan giám sát và ép tuân thủ
Các chính phủ nên cố gắng ép các ban quản trị các trường học, cao đẳng và đại học để đảm bảo
rằng một hệ thống huấn luyện trước khi phục vụ và trong khi phục vụ là tồn tại, như một điều kiện
đầu tư vốn cho tương lai. Các chính phủ nên từ chối cấp vốn cho bất kỳ cơ sở công lập nào không
tuân theo các tiêu chuẩn cho huấn luyện trong việc dạy học được các nhà chức trách thích hợp của
hệ thống rộng khắp thiết lập và phê chuẩn.
12.2.4.6 Tích hợp trong nội bộ
Các công nghệ dạy và học pha trộn và hoàn toàn trên trực tuyến sẽ được coi như là các thành phần
không thể thiếu của sự phát triển nghề nghiệp, chứ không phải là các hoạt động tách bạch riêng rẽ.
Vì thế các văn phòng phát triển giáo viên sẽ được tích hợp với các đơn vị hỗ trợ công nghệ học tập
trong các Trung tâm Dạy và Học (hoặc tập trung hoặc phân tán, phụ thuộc vào kích cỡ của đơn vị),
nơi mà điều này còn chưa xảy ra.
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 515/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
12.2.5 Kết luận
Chúng ta có thể không mơ về việc cho phép các bác sỹ hoặc các phi công thực hiện công việc của
họ mà không có sự huấn luyện chính quy có liên quan tới các hoạt động công việc chính của họ,
vâng điều này là chính xác tình huống liên quan tới việc dạy học trong giáo dục sau trung học.
Chúng ta phải chuyển từ một hệ thống không chuyên tự nguyện sang một hệ thống chuyên nghiệp,
toàn diện về huấn luyện cho việc dạy học trong giáo dục sau trung học, và một chương trình giảng
dạy hiện đại, được cập nhật cho huấn luyện trước khi phục vụ và trong khi phục vụ của các giáo
viên trong các trường học. Cuốn sách này cố gắng cung cấp ít nhất một chương trình giảng dạy cơ
bản cho dạng huấn luyện này.
Tôi đã gợi ý vài giải pháp cho vấn đề có hệ thống đó. Những giải pháp khác hỗ trợ cho con đường
của các cộng đồng thực hành nghề nghiệp là chấp nhận được hơn về mặt văn hóa cho các giáo viên
đại học, nhưng không đáp ứng được các kiểm thử về tính toàn diện và tính hệ thống.
Các công nghệ học tập mới và học tập trên trực tuyến không phải là lý do, cũng không phải là giải
pháp cho vấn đề, nhưng chúng cung cấp một chất xúc tác cần thiết cho sự thay đổi. Các sinh viên
của chúng ta xứng đáng không ít hơn so với các giáo viên được huấn luyện đúng thích hợp. Hiện
trạng, ít nhất trong giáo dục sau trung học, là ngày càng không thể chấp nhận được, một sự thật
không ai dám nói. Đã tới lúc chúng ta làm việc với nó.
Hình 12.2.4 Các giáo viên động não về việc sử dụng công nghệ cho việc dạy học
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 516/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
Hoạt động 12.2 Việc nhận diện các nhu cầu huấn luyện nghề nghiệp của bạn
1. Bạn có tin hệ thống phát triển nghề nghiệp bị 'đổ vỡ' không? Liệu điều này có đúng cho
giáo dục giáo viên các trường như nó đang có cho giáo dục sau trung học không? Hay liệu
hệ thống huấn luyện trong tổ chức của bạn làm việc tốt một cách hợp lý cho việc dạy học
trong kỷ nguyên số?
2. Liệu có là tốt hơn không huấn luyện cho các giáo viên trong các trường đại học để dạy, mà
chỉ đặt họ vào các nhóm làm việc với các nhà thiết kế chỉ dẫn và các nhà sản xuất các
phương tiện?
3. Đã đọc xong cuốn sách này (hoặc một phần của nó) bây giờ bạn có thể định nghĩa các nhu
cầu huấn luyện nghề nghiệp của riêng bạn được không? Bạn có thể có sự hỗ trợ cho điều
này ở nơi bạn làm việc không?
4. Trong các trường đại học, bản thân các giáo viên kiểm tra các ban được bổ nhiệm, kỳ hạn
và đề bạt. Điều gì có thể được làm để việc dạy học được tính tới nhiều hơn trong các bổ
nhiệm, kỳ hạn và đề bạt mà không làm suy yếu tình trạng hàn lâm hoặc vị thế của một
trường đại học?
Các tham chiếu
• Bates, A. and Sangrà, A. (2011) Managing Technology in Higher Education: Strategies for
Transforming Teaching and Learning San Francisco: Jossey-Bass/John Wiley & Co.
• Christensen Hughes, J. and Mighty, J. (eds.) (2010) Taking Stock: Research on Teaching and
Learning in Higher Education Montreal QC and Kingston ON: McGill-Queen’s University
Press, 350 pp
• Knapper, C. (2010) ‘Changing Teaching Practice: Barriers and Strategies’ in
ChristensenHughes, J. and Mighty, J. eds. Taking Stock: Research on Teaching and
Learning in Higher Education Toronto ON: McGill-Queen’s University Press
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 517/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
12.3 Hỗ trợ công nghệ học tập
Hình 12.3 Đội Hỗ trợ Học tập Công nghệ Cao của Đại học Bristol (Anh): hãy nháy vào
ảnh để đi tới được các tài nguyên của trung tâm
Từng có nhiều tham chiếu trong cuốn sách này về nhu cầu cho các giáo viên và những người chỉ
dẫn để làm việc, ở bất kỳ đâu có thể, với các nhà thiết kế chỉ dẫn và các nhà sản xuất phương tiện
khi dạy học trong kỷ nguyên số. Các lý do cho điều này là khá rõ:
• không giáo viên nào có thể là một chuyên gia về mọi điều; làm việc trong một đội bao trùm
một dải rộng lớn hơn các kỹ năng và tri thức;
• công nghệ sẽ được sử dụng để làm giảm tải công việc của người chỉ dẫn và giáo viên, không
làm tăng nó, như tại lúc này; những người thiết kế chỉ dẫn đặc biệt nên có khả năng giúp các
giáo viên và giảng viên quản lý tải công việc của họ trong khi vẫn sản xuất được việc dạy
học có chất lượng cao; các nhà sản xuất các phương tiện xúc tác cho chủ đề còn các chuyên
gia tập trung vào phát triển nội dung và các kỹ năng;
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 518/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
• dạy học theo đội, với các kỹ năng khác nhau trong đội (2 hoặc nhiều hơn chuyên gia về chủ
đề, người thiết kế chỉ dẫn, nhà sản xuất các phương tiện) sẽ dẫn tới việc dạy học chất lượng
cao hơn.
Kết quả là, trong vòng 10 tới 20 năm qua, đã có sự bùng nổ nhanh về số lượng các hệ thống hỗ trợ
công nghệ học tập, cả tập trung, và trong các cơ sở lớn hơn, trong các phòng nghiên cứu hàn lâm
khác nhau. Qua thời gian các đơn vị riêng biệt tập trung vào sự phát triển giáo viên, hỗ trợ công
nghệ học tập, và giáo dục từ ở xa đã trở nên nổi bật hoặc được tích hợp trong các đơn vị đa chức
năng, dưới các cái tên khác nhau, dù các hệ thống có từ trước có thể đôi khi mất thời gian dài để
tiến hành sự dịch chuyển.
Khi sự dịch chuyển sang việc học tập pha trộn, lai và trên trực tuyến gia tăng, vì thế cũng gia tăng
các đòi hỏi đối với các đơn vị hỗ trợ đó, ở một mức độ mà một trường đại học tôi rất biết bây giờ có
hơn 60 nhân viên hỗ trợ và ngân sách hơn 12 triệu USD mỗi năm cho Trung tâm Dạy, Học và Công
nghệ tập trung của nó, cộng với vài đơn vị 'vệ tinh' trong các khoa lớn hơn. Mặc khác, một trường
tiểu học nhỏ sẽ là may mắn để có 1 giáo viên với vài sự huấn luyện trong việc duy trì các máy tính
và Internet được bổ sung thêm cho các trách nhiệm của họ. Tuy nhiên, nhiều hệ thống trường học
cũng có một đơn vị công nghệ giáo dục tập trung có thể cung cấp sự hỗ trợ cho các giáo viên và các
trường học riêng lẻ trong hệ thống.
Tôi là người ủng hộ mạnh mẽ các đơn vị chuyên nghiệp như vậy làm việc với các giáo viên và
những người chỉ dẫn. Tuy nhiên, điều này phải được cân bằng bù đắp được các chi phí. Việc cấp
vốn cho các đơn vị đó thường tới từ bên trong toàn bộ ngân sách cho việc dạy và học, điều mà cuối
cùng kết thúc bằng việc tạo ra các lớp học lớn hơn. Các đơn vị hỗ trợ đó lớn lên theo tỷ lệ nghịch
với sự thiếu huấn luyện trước khi phục vụ và trong khi phục vụ.
Tuy nhiên, các đơn vị hỗ trợ công nghệ học tập đó là cơ bản cho sự phát triển có hiệu quả của việc
dạy học trong kỷ nguyên số. Vì thế sự cân bằng cần phải được tìm ra giữa cung cấp huấn luyện
trong sử dụng các công nghệ học tập và nhu cầu cho các đơn vị hỗ trợ công nghệ học tập, điều giải
thích vì sao các cơ sở cần một chiến lược được định nghĩa cho việc hỗ trợ dạy và học. Vì thế dù có
khả năng một giáo viên chuyên tâm đặc biệt để dạy thành công mà không cần sự hỗ trợ như vậy, thì
các đơn vị hỗ trợ công nghệ học tập đang trở thành một dịch vụ cơ bản cho hầu hết các giáo viên và
những người chỉ dẫn.
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 519/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
12.4 Các điều kiện việc làm
Hình 12.4.1 Kích cỡ lớp học ảnh hưởng tới khả năng phát triển các kỹ năng và tri thức
cần thiết trong kỷ nguyên số
Hiện có vài thay đổi chính trong các điều kiện hoặc việc làm sẽ ảnh hưởng tới khả năng của các
giáo viên và những người chỉ dẫn cá nhân để phân phối dạng dạy học cần thiết trong kỷ nguyên số.
12.4.1 Kích cỡ lớp học
Rõ ràng nhất là kích cỡ lớp học. Dù vài nền kinh tế quy mô là chắc chắn đạt được qua sử dụng công
nghệ cho việc dạy học (xem, ví dụ, Bates, 2013), và không có con số ma thuật nào về có bao nhiêu
sinh viên sẽ là nên cho mỗi giáo viên, chúng ta đã thấy trong các chương trước rằng sự hiện diện
của người chỉ dẫn và sự tương tác giữa các chuyên gia về chủ đề và các sinh viên là các yếu tố then
chốt trong việc phát triển tri thức và các kỹ năng cần thiết trong kỷ nguyên số.
Dù công nghệ có thể thay thế nhu cầu của những người chỉ dẫn đối với việc truyền đạt nội dung, thì
nhu cầu cho sự giao tiếp liên tục giữa giáo viên và các sinh viên để hiểu sâu và phát triển các kỹ
năng, ngụ ý điều đó sẽ sớm trở thành một hạn chế, về khía cạnh số lượng các sinh viên cho 1 người
chỉ dẫn, vượt qua nó thì việc dạy học nhanh chóng bắt đầu trở nên không có hiệu quả, ít nhất về
khía cạnh tri thức và các kỹ năng có vấn đề nhất (Carey và Trick, 2013).
Vì thế thách thức chính là các trường đại học và vài trường cao đẳng 2 năm cỡ lớn, nơi mà các lớp
học năm đầu và năm thứ 2 có thể có số lượng hàng ngàn, và thậm chí trong các lớp học năm thứ 3
Văn phòng Phối hợp Phát triển Môi trường Khoa học & Công nghệ, Bộ Khoa học & Công nghệ Trang 520/604
Dạy học trong kỷ nguyên số, Tony Bates, xuất bản lần đầu 15/04/2015 Bản cập nhất tới hết tháng 8/2015
và thứ 4, với hàng trăm. Điều gì có thể được làm để đảm bảo rằng tỷ lệ giáo viên : sinh viên được
giữ ở kích cỡ có thể quản lý được? Các cơ sở đã chọn vài tiếp cận khác nhau cho thách thức này.
12.4.2 Sử dụng gia tăng những người chỉ dẫn hợp đồng và
các trợ giảng
Một trong những thách thức lớn nhất cho các trường đại học ở Bắc Mỹ trong vòng 20 năm qua từng
là sự gia tăng của các giáo viên dạy học không theo kỳ hạn trong các trường đại học. Sự bùng nổ
trong tuyển mộ các sinh viên chưa tốt nghiệp khắp Canada - hơn 400.000 sinh viên từ 2002 tới 2012
- đã không hề suy giảm tương ứng các giáo viên theo dõi theo kỳ hạn (tenure-track). Trong khi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- teaching_in_a_digital_age_1429535678_vi_15092015p2_7683.pdf