Vị trí của các doanh nghiệp nông - lâm - ngư trong hệ thống doanh nghiệp ở tỉnh Nghệ An nhìn từ góc độ nộp ngân sách

Thuế thu từ các doanh nghiệp không những là nguồn đóng góp vào ngân sách hết sức quan trọng, nó còn là thước đo trình độ phát triển của bản thân các doanh nghiệp của một ngành. Nếu sản xuất, kinh doanh lớn mạnh, mức nộp ngân sách sẽ lớn và ngược lại. Nghệ An là một tỉnh có hơn 60% dân số sống bằng nông nghiệp; ngành này cũng đóng góp hơn ¼ GDP của địa phương. Tuy vậy, hàng năm số thuế thu được từ các doanh nghiệp của ngành này chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn, khoảng từ 3 đến 4%. Kết quả đó là do số lượng các doanh nghiệp lớn trong ngành này không nhiều và thường chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế. Thực trạng này, đòi hỏi nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu, trong đó có thuế, để khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành phát triển

pdf5 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 11/05/2022 | Lượt xem: 451 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vị trí của các doanh nghiệp nông - lâm - ngư trong hệ thống doanh nghiệp ở tỉnh Nghệ An nhìn từ góc độ nộp ngân sách, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
106 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017 VỊ TRÍ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÔNG - LÂM - NGƯ TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP Ở TỈNH NGHỆ AN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘP NGÂN SÁCH THE ROLE OF AGRICULTURE–FORESTRY-FISHERY BUSINESSES IN THE SYSTEM OF ENTERPRISES IN NGHE AN PROVINCE FROM BUDGET CONTRIBUTION PERSPECTIVE Nguyễn Minh Sửu1, Trần Đình Chất2 Ngày nhận bài: 08/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 22/2/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017 TÓM TẮT Thuế thu từ các doanh nghiệp không những là nguồn đóng góp vào ngân sách hết sức quan trọng, nó còn là thước đo trình độ phát triển của bản thân các doanh nghiệp của một ngành. Nếu sản xuất, kinh doanh lớn mạnh, mức nộp ngân sách sẽ lớn và ngược lại. Nghệ An là một tỉnh có hơn 60% dân số sống bằng nông nghiệp; ngành này cũng đóng góp hơn ¼ GDP của địa phương. Tuy vậy, hàng năm số thuế thu được từ các doanh nghiệp của ngành này chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn, khoảng từ 3 đến 4%. Kết quả đó là do số lượng các doanh nghiệp lớn trong ngành này không nhiều và thường chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế. Thực trạng này, đòi hỏi nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu, trong đó có thuế, để khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành phát triển. Từ khó a: Thuế , thướ c đo, nông - lâm - ngư, doanh nghiệ p, khuyế n khí ch ABSTRACT Tax collected from businesses is not only an important contribution to national budget but also a refl ective indicator of businesses’ development level. If the activities of production and business develop, businesses’ contribution to national budget increases and vice versa. Over 60% of Nghe An province’s population live in agriculture, and this industry also contributes more than one forth to the local GDP. However, annual tax collected from agricultural businesses is only at modest level, about from 3 to 4% of the local budget. This result comes from the fact that the amount of big businesses is very small and their production is just at the preliminary level. This status requires the government to issue effective solutions including improving tax policies to encourage the development of businesses in this area. Keywords: Tax, businesse, indicator, development level, preliminary level, effective solutions, tax policies 1 Kiểm toán Nhà nước khu vực II, thà nh phố Vinh, tỉ nh Nghệ An 2 Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC I. ĐẶ T VẤ N ĐỀ “Thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ do luật qui định cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội nộp cho nhà nước bằng một phần thu nhập của mình vào ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước” [3]. Thông qua số thuế nộ p và o ngân sá ch, có thể thấ y vị trí , vai trò củ a cá c ngà nh trong nề n kinh tế . Nghệ An là một trong những tỉnh có diện tích và dân số lớn nhất nước; dân cư trên địa bàn chủ yếu sống bằng nghề nông; GDP của ngành này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 107 tổng GDP của cả Tỉnh. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra làm sao để phát triển các doanh nghiệp chế biến, dịch vụ, hậu cần nhằm tạo điều kiện cho ngành thay đổi diện mạo, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, phục vụ quốc kế, dân sinh. Để làm rõ vị trí của các doanh nghiệp trong ngành, có thể xem xét, đánh giá thông qua số lượng doanh nghiệp hiện đang hoạt động, cũng như số thuế của nó hàng năm đóng góp vào ngân sách nhà nước.. Đây là những doanh nghiệp có vốn lớn, doanh thu cao, số nộp thuế nhiều, hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, do Cụ c thuế Nghệ An trự c tiế p quả n lý . Chí nh vì vậ y, nế u là m rõ đượ c vị trí củ a cá c doanh nghiệ p nà y thông qua số lượ ng đơn vị tham gia hoạ t độ ng sả n xuấ t kinh doanh, số thuế nộ p và o ngân sá ch, có thể có nhữ ng giả i phá p hữ u hiệ u nhằ m nâng cao vị trí củ a cá c doanh nghiệ p trong khố i nà y trong cá c doanh nghiệ p trên đị a bà n tỉ nh Nghệ An. II. ĐỐ I TƯỢ NG, CƠ SỞ LÝ THUYẾ T VÀ PHƯƠNG PHÁ P NGHIÊN CỨ U Đố i tượ ng nghiên cứ u là vị trí củ a cá c doanh nghiệ p Nông - Lâm - Ngư trong hệ thố ng doanh nghiệ p củ a tỉ nh Nghệ An. Cơ sở lý thuyế t mà bà i bá o nà y vậ n dụ ng là nhữ ng vấ n đề lý luậ n liên quan đế n thuế và kinh tế phá t triể n củ a cá c ngà nh trong nề n kinh tế quố c dân. Phương pháp thống kê bao gồm chủ yếu là thống kê mô tả và thống kê so sánh. Phương pháp thống kê mô tả được thực hiện thông qua việc sử dụng số bình quân, tần số, số tối đa và tối thiểu. Phương pháp thống kê so sánh gồm cả so sánh số tuyệt đối và so sánh số tương đối để đánh giá động thái phát triển của hiện tượng, sự vật theo thời gian và không gian. III. KẾ T QUẢ NGHIÊN CỨ U 1. Hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An Qua Bảng 1, ta thấy, tổng số lượng doanh nghiệp (DN) trên địa bàn tỉnh Nghệ An do Cục Thuế trực tiếp quản lý, có sự biến động mạnh trong kỳ nghiên cứu. Nếu như năm 2011, tổng số là 503 thì năm 2012 lên tới 679, tức tăng 176 DN hay tăng 35%. Sang năm 2013, số DN chỉ còn 474, giảm 205 tức giảm 30,2%. Như vậy, xét về tổng thể, trong năm 2012 các doanh nghiệp có tiến bộ vượt bậc, khi những doanh nghiệp này có sự phát triển về mặt quy mô. Tuy nhiên, qua năm 2013, tình hình lại trở nên xấu đi, khi một số lượng lớn doanh nghiệp lại sụt giảm về quy mô kinh doanh. Có thể nói, sự biến động này là quá lớn, ngay cả trong trường hợp môi trường kinh tế toàn cầu cũng như trong nước có nhiều bất lợi, khi tình hình suy thoái chưa được hồi phục, và nói chung nền kinh tế đang trong thời kỳ bất ổn. Từ đó ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn Tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi. Bảng 1. Cơ cấu các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An thời kỳ 2011 - 2013. STT Ngành nghề hoạt động Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng Tỉ trọng (%) Số lượng Tỉ trọng (%) 1 CN chế biến, chế tạo 133 26,4 174 25,6 120 25,3 2 Xây dựng, lắp đặt 157 31,2 200 29,5 163 34,4 3 Vận tải, kho bãi 19 3,8 33 4,9 27 5,7 4 Thương mại 93 18,5 158 23,3 95 20,0 - Bán buôn 81 16,1 116 17,1 81 17,1 - Bán lẻ 12 2,4 42 6,2 14 2,9 5 Nông-Lâm-Thủy sản 17 3,4 27 4,0 22 4,6 6 Dịch vụ, lưu trú 56 11,1 46 6,8 19 4,0 7 Khai khoáng 28 5,6 41 6,0 28 5,9 Tổng cộng 503 100 679 100 474 100 Cụ c Thuế Nghệ An, 2014 108 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017 Xét về cơ cấu ngành nghề kinh doanh, ngành xây dựng lắp đặt luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên, dưới 30% trong tổng số. Và bản thân ngành này cũng có sự biến động lớn qua các năm, nếu như năm 2012 ghi nhận sự tăng trưởng so với năm trước (27,4%), thì năm 2013 lại suy giảm (18,5%). Đây có thể là dấu hiệu của hiện tượng đóng băng của bất động sản ở nước ta nói chung và tại Nghệ An nói riêng. Khối ngành có số lượng DN lớn thứ hai là công nghiệp chế biến, chế tạo, với tỷ trọng trong tất cả các năm đều chiếm trên 25% và số lượng của nó cũng biến động thất thường, từ 133 năm 2011 lên 174 năm 2012 (tăng 30,8%) , lại giảm xuống còn 120 vào năm 2013 (giảm 31%). Khối ngành có số lượng DN lớn thứ ba là thương mại, với tỷ trọng qua các năm xấp xỉ 20% và nó cũng chịu sự biến động rất lớn trong vòng 3 năm. Cụ thể vào năm 2011 mới chỉ có 93 đơn vị, sang năm 2012 lên tới 158, tăng 67%; thế nhưng đến năm 2013 lại giảm xuống còn 95 DN tương ứng giảm 39,9%. Điều đáng lưu tâm là trong khối ngành sản xuất, khối Nông - Lâm - Ngư có số lượng DN rất không đáng kể với tỷ trọng khiêm tốn 3 - 4%. Là một tỉnh thuộc loại lớn nhất nước cả về diện tích lẫn dân số, khi phần lớn cư dân sống nhờ các ngành này, trong khi đó vị trí các DN của nó khiêm nhường đến như vậy.Vấn đề đặt ra là nhà nước phải có chính sách đồng bộ trong đó có thuế để tạo điều kiện cho những ngành sản xuất quan trọng như vậy phát triển. Nhìn chung trong tất cả các ngành khác cũng tuân theo quy luật là tăng mạnh về số lượng trong năm 2012 và giảm mạnh vào năm kế tiếp. Ta chỉ có thể lý giải hiện tượng này là do môi trường làm ăn, kinh doanh đầy biến động bất lợi cho các DN, chính vì vậy sự tồn vong của chúng là khó lường. Và đây cũng là cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có thuế có những chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các DN tồn tại và phát triển được trong những thời điểm bất ổn và bất lợi. 2. Tình hình nộp thuế theo ngành hoạt động đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An Nhìn chung tình hình thực hiện nghĩa vụ thuế của các DN trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong kỳ nghiên cứu không đạt so với dự toán (Bảng 2). Cụ thể, năm 2011 chỉ đạt 76,6%, năm 2012 đạt 81,9% và năm 2013 đạt mức thấp nhất so với dự toán là 74,7%. Ta thấy rằng chênh lệch giữa số thực hiện so với dự toán là khá lớn (trên dưới 20%); điều này có thể xuất phát từ hai phía, thứ nhất nhà nước đưa ra chỉ tiêu quá cao, thứ hai bản thân các DN gặp nhiều khó khăn, nên kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, do đó số thuế dự kiến sẽ nộp cao hơn nhiều so với số thực tế. Trên góc độ đóng góp của các doanh nghiệp ở một tỉnh lớn như Nghệ An là rất khiêm tốn, khi hàng năm con số này chưa vượt mức 3 nghìn tỷ đồng. Điều này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách làm sao tạo lập được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển để từ đó có nguồn thu nhiều hơn, các ngành kinh tế của Tỉnh đóng góp xứng đáng hơn cho ngân sách Nhà nước. Tương xứng với số lượng doanh nghiệp lớn nhất so với các ngành nghề kinh doanh, ngành xây dựng, lắp đặt cũng đóng góp nhiều nhất trong tổng số thuế mà doanh nghiệp các ngành đã nộp. Năm 2011, các DN của ngành này đã nộp vào ngân sách 611.623,3 triệu đồng, chiếm 34% trong tổng số thuế đã nộp của các ngành sản xuất kinh doanh. Trong các năm còn lại tỷ lệ này tương ứng là 32,4 và 32,9%. Như vậy, riêng ngành này đã đóng gần 1/3 số thuế mà các doanh nghiệp đã nộp. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 109 Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm vị trí thứ hai trong các ngành sản xuất, kinh doanh. Trong năm 2011, ngành này đóng góp 425.770,1 triệu đồng hay chiếm 23,7% tổng số thuế mà các doanh nghiệp đã nộp. Vào năm kế tiếp tỷ lệ này có giảm đi chút ít ở mức 22,7%. Và tỷ trọng lớn nhất mà ngành này có được là ở năm 2013, khi các doanh nghiệp của nó đóng góp tới 26,8% trong tổng số. Một điều cần phải ghi nhận là, số thuế tuyệt đối mà ngành này đã nộp tăng liên tục và đáng kể qua các năm, từ 425.770,1 triệu đồng năm 2011, lên 537.155,6 triệu đồng năm 2012 và đạt tới 698.358,7 triệu đồng vào năm 2013. Như vậy hàng năm ngành này tăng hơn 25%, một tỷ lệ tăng rất cao. Đây cũng là dấu hiệu đáng khích lệ vì đây được coi là ngành chủ đạo trong sự nghiệp công nghiệp hóa của nước ta nói chung và Nghệ An nói riêng. Đứng thứ ba về số thuế đã nộp là ngành thương mại, khi ngành này vào năm 2011 đóng góp vào ngân sách 342.681,3 triệu đồng, tức chiếm 19,0% trong tổng số thuế mà các doanh nghiệp trong Tỉnh mà Cục thuế đã thu. Những năm tiếp theo tỷ lệ này lần lượt là 22,4 và 20,0%. Những ngành còn lại như vận tải, kho bãi; Nông - Lâm - Thủy sản; dịch vụ lưu trú; khai khoáng tỷ lệ này khiêm tốn hơn ở mức dưới 10%. Sự tăng trưởng liên tục còn được thể hiện ở ngành Nông - Lâm - Thủy sản, ngành được coi là hết sức quan trọng trong bước đầu phát triển của một nền kinh tế. Bảng 2. Tình hình nộp thuế của các DN theo ngành hoạt động thời kỳ 2011 - 2013 Đơn vị tính: Triệu đồng STT Ngành nghềhoạt động Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Dự toán Thực hiện Dự toán Thực hiện Dự toán Thực hiện 1 CN chế biến, chế tạo 621.000 425.770,1 741.900 537.155,6 881.000 698.358,7 2 Xây dựng, lắp đặt 733.700 611.623,3 852.700 768.880,0 1.196.800 854.270,5 3 Vận tải, kho bãi 88.000 67.967,1 140.700 115.150,0 198.000 148.130,7 4 Thương mại 434.600 342.681,3 673.600 531.325,2 697.000 521.200,6 - Bán buôn 378.600 289.754,7 494.000 384.770,4 594.000 444.392,1 - Bán lẻ 56.000 52.926,6 179.000 146.554,8 102.600 76.808,5 5 Nông-Lâm-Thủy sản 74.800 57.235,5 123.100 101.192,6 154.000 115.212,8 6 Dịch vụ, lưu trú 266.000 193.901,5 187.600 173.533,6 139.500 124.240,1 7 Khai khoáng 131.900 100.162,1 174.400 143.065,5 212.700 139.103,4 Tổng cộng 2350000 1799340,9 2894000 2369302,7 3479000 2600516,8 Cụ c Thuế Nghệ An, 2014 Hì nh 1. Tỷ trọ ng nộ p thuế và o ngân sá ch củ a cá c ngà nh tạ i Cụ c Thuế Nghệ An Cụ c Thuế Nghệ An, 2014 110 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 1/2017 Thuế nộp vào ngân sách của ngành Nông - Lâm - Thủy sản, có tốc độ tăng trưởng rất cao trong kỳ nghiên cứu. Nếu như năm 2011, số thuế đã nộp mới chỉ đạt 57.235,5 triệu đồng, thì sang năm 2012 đã lên tới 101.192,6 triệu đồng hay tăng 43.957,1 triệu đồng tương ứng tăng 76,8%. Qua năm 2013, số thuế đóng góp cho ngân sách của khối ngành này là 115.212,8 triệu đồng, tăng 14.020,2 triệu đồng so với năm trước hay tăng 13,9%. Tuy nhiên, tỷ trọng số thuế thu được của khối Nông - Lâm - Ngư trong tổng số thuế thu được của các doanh nghiệp do Cục Thuế Nghệ An trực tiếp quản lý, tăng không đáng kể và chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn (Hì nh 1). Cụ thể, trong năm 2011 tỷ lệ này là 3,2%, sang năm 2012 là 4,3% và năm 2013 là 4,4%. Có thể nói, mức đóng góp vào ngân sách của các doanh nghiệp của Nông - Lâm - Thủy sản là quá khiêm tốn, tại một tỉnh có tới 64% [5] dân cư sống bằng nông nghiệp; GDP của ngành này chiếm 26% [1] trong tổng GDP của Tỉnh Nghệ An. Điều này nói lên rằng, những doanh nghiệp có quy mô lớn sản xuất, kinh doanh trong ngành không nhiều. Mặt khác, cũng cho thấy tỷ lệ hàng hóa trong ngành có giá trị gia tăng không cao, chủ yếu được tiêu thụ dưới dạng nguyên liệu chưa qua chế biến, hoặc chỉ mới sơ chế. Theo Thông tư 156/2013/ TT-BTC thì: doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ bán sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, hải sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường thì không phải nộp hoặc nộp với thuế suất thấp là 5% [2]. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾ N NGHỊ Nhìn chung qua phân tích ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản như: - Thứ nhấ t, những ngành vừa có mức đóng góp cao vào ngân sách, vừa đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phá t triể n củ a kinh tế củ a Tỉ nh, như công nghiệp chế biến, chế tạo cần được Nhà nước, địa phương đặc biệt chú ý; - Thứ hai, những ngành tuy không thuộc diện ưu tiên cao về mặt chiến lược phát triển, nhưng lại có mức đóng góp thuế cao như xây dựng, lắp đặt; thương mại cần được coi trọng; - Thứ ba, những ngành tuy không có mức nộp thuế cao, nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt đối với quốc kế dân sinh như Nông – Lâm – Thủy sản cần được sự quan tâm đúng mức của Nhà nước, địa phương về các chính sách, trong đó có thuế. Xuấ t phá t từ nhữ ng quan điể m cơ bả n trên, tỉ nh Nghệ An cầ n có nhữ ng chí nh sá ch khuyế n khí ch nhằ m phá t triể n cá c doanh nghiệ p chế tạ o, chế biế n, sử a chữ a, dị ch vụ hậ u cầ n, trồ ng rừ ng trong khố i Nông - Lâm - Ngư. Điề u nà y không chỉ thuầ n tú y xuấ t phá t từ mụ c tiêu gia tăng sự đó ng gó p và o ngân sá ch củ a cá c doanh nghiệ p nà y, mà cò n tạ o tiề n đề phá t triể n cho toà n ngà nh. Về phí a nhà nướ c cầ n có nhữ ng chí nh sá ch ưu đã i hơn nữ a về thuế , nhằ m tạ o điề u kiệ n cho cá c doanh nghiệ p trong ngà nh nà y phá t triể n, nhấ t là đố i vớ i nhữ ng vù ng đặ c biệ t khó khăn như ở cá c huyệ n miề n nú i củ a Tỉ nh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Đăng Bằng, 2014. Kinh tế Nghệ An năm 2013 - Thực trạng và khuyến nghị. Chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn Nghệ An, Số 12/2013. 2. Bộ Tà i chí nh, 2013. Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, Hà Nộ i. 3. Phan Thị Cúc, Trần Phước, Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2007. Giáo trình Thuế. NXB Thống kê. 4. Cụ c Thuế Nghệ An, 2014. Bá o cá o tổ ng kế t hà ng năm. 5. Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam, 2013. Nghệ An xứng tầm với vai trò thủ phủ Bắc Trung Bộ. 6. Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvi_tri_cua_cac_doanh_nghiep_nong_lam_ngu_trong_he_thong_doan.pdf