Nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Ðại hội X của Ðảng trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới đã có một bước tiến mới quan trọng trong nhận thức về con đường đi lên CNXH của nước ta
Trong hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào Ðảng ta vẫn luôn kiên định con đường XHCN, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ðường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, mà còn là đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng XHCN, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Ngay cả trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX, khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Ðông Âu bị sụp đổ, Ðảng ta vẫn luôn kiên định con đường XHCN. Từ thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước, Ðảng và nhân dân ta nhận thức sâu sắc rằng, chỉ có con đường độc lập dân tộc và CNXH, Tổ quốc ta mới được độc lập, tự do, nhân dân ta mới trở thành người làm chủ, tự quyết định con đường phát triển của mình. Ðúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm".
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy rằng con đường kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự lựa chọn con đường XHCN là sự lựa chọn của Ðảng, Bác Hồ, và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử. Sự ra đời của Ðảng ta năm 1930; thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975; thắng lợi của công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay là những mốc son chói lọi trên con đường đó, của sự lựa chọn lịch sử dân tộc.
10 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Vì sao Đảng chủ trương hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường - Cho biết giải pháp phát triển các loại thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TẬP LỚN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI: Vì sao Đảng chủ trương hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường?Cho biết giải pháp phát triển các loại thị trường?
Sinh viên thực hiện:Trần Thị Hải Yến
Mã sinh viên :CQ503147
Lớp học phần:Đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam_16
Giáo viên hướng dẫn:
1.Nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Ðại hội X của Ðảng trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới đã có một bước tiến mới quan trọng trong nhận thức về con đường đi lên CNXH của nước ta
Trong hơn 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh nào Ðảng ta vẫn luôn kiên định con đường XHCN, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam. Ðường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, mà còn là đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng XHCN, trong công cuộc đổi mới hiện nay. Ngay cả trong những năm 80, 90 của thế kỷ XX, khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Ðông Âu bị sụp đổ, Ðảng ta vẫn luôn kiên định con đường XHCN. Từ thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước, Ðảng và nhân dân ta nhận thức sâu sắc rằng, chỉ có con đường độc lập dân tộc và CNXH, Tổ quốc ta mới được độc lập, tự do, nhân dân ta mới trở thành người làm chủ, tự quyết định con đường phát triển của mình. Ðúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm".
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy rằng con đường kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự lựa chọn con đường XHCN là sự lựa chọn của Ðảng, Bác Hồ, và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử. Sự ra đời của Ðảng ta năm 1930; thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954; thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc năm 1975; thắng lợi của công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay là những mốc son chói lọi trên con đường đó, của sự lựa chọn lịch sử dân tộc.
Trước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung có những đặc điểm sau:
+Thứ nhất,nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng các mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiêu áp đặt từ trên xuống dưới.Tất cả các phương hướng sản xuất,nguồn vật tư,tiền vốn,định giá sản phẩm,tổ chức bộ máy nhân sự,tiền lương…đều do các cấp cps thẩm quyền quyết định.Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch,cấp phát vốn vật tư cho doanh nghiệp,doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho nhà nước.Lỗ thì nhà nước chịu,lãi thì nhà nước thu.
+Thứ hai,các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.Vì vậy các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất,kinh doanh cũng như không bị ràng buooch về trách nhiệm mà kết quả đạt được.
+Thứ ba,quan hệ hàng hóa-tiền tệ bị coi nhẹ.Nhà nước quản lý thông qua chế độ “cấp phát-giao nộp”.Vì vậy,rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động,phát minh sáng chế,… không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý
+Thứ tư,bộ máy quản ký cồng kềnh,đội ngũ quản lý kém năng lực,phong cách cửa quyền,quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu,bao cấp có những tác dụng nhất định nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh,kìm hãm tiến bộ khoa học kỹ thuật,triệt tiêu động lực kinh tê,tính năng động,sáng tạo của người lao động,kìm hãm sản xuất,giảm năng suất lao động,chất lượng hiệu quả…Chính vì vậy,việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
Mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
+Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển thuận lợi.
+Đổi mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
+Phát triển đồng bộ,đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước,từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
+Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa,xã hội đảm bảo tiến bộ,công bằng xã hội,bảo vệ môi trường.
+Nâng cao hiệu quả,hiệu lực quản lý cảu nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc,các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân trong quản lý,phát triển kinh tế-xã hội.
Trong những mục tiêu trên “Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tô thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường là một trong năm mục tiêu quan trọng mà Đảng đã đề ra trong nền kinh tế thị trường hiện nay.Bao gồm:
+ Hoàn thiện thể chế về giá,cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
+ Hoàn thiện khung pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
+ Hoàn thiện cơ chế giám sát, điều tiết thị trường và xúc tiến thương mại, đầu tư và giải quyết tranh chấp phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế.
+ Đa dạng hóa các loại thị trường hàng hóa và dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ.
+ Tự do hóa thương mại và đầu tư phù hợp với cam kết quốc tế.
+ Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm…
+ Phát huy tốt vai trò điều hành thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước, vừa thúc nay tăng trưởng kinh tế vừa kiểm soát lạm phát và từng bước mở rộng thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng cho phù hợp với cam kết quốc tế.
+ Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán, tăng tính minh bạch, chống các giao dịch phi pháp.
+ Tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế.
+ Hoàn thiện luật pháp, cơ chế chính sách để các quyền về đất đai và bất động sản vận động theo cơ chế thị trường; hoàn thiện luật pháp chính sách về tiền lương, tiền công trong đó tiền lương phải được coi là giá cả của sức lao động hình thành theo quy luật thị trường, dựa trên cung cầu về sức lao động.
+ Xây dựng đồng bộ luật pháp, cơ chế, chính sách quản lý, hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
+ Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ phù hợp cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý thị trường công nghệ.
+ Nhà nước tăng cường đầu tư và đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa cho các ngành giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục,thể thao; ban hành tiêu chuẩn, tiêu chí về các hoạt động của dịch vụ này, tăng cường quản lý nhà nước để hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường đối với các hoạt động dịch vụ.
Với các nội dung trên chủ trương “hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường” đã giúp cho nhà nước quản lý được nền kinh tế một cách dễ dàng và hiệu quả nhất ,có các biện pháp xử phạt thích đáng đối với các doanh nghiệp vi phạm nhằm ổn định nền kinh tế trong nước.Đồng thời nó cũng giúp cho các doanh nghiệp quản lý tốt doanh nghiệp của mình vừa có cơ hội bình đẳng vươn ra thị trường khu vực và thị trường thế giới.Không những vậy nó còn giúp cho người lao động có môi trường làm việc an toàn,hiệu quả và sáng tạo.
Chính những lý do trên mà Đảng ta đã chủ trương “hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thi trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường”.
2.Giải pháp phát triển các loại thị trường:
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặc biệt là khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới cạnh tranh với các thị trường ở khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt.Do vậy việc phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả ba cấp độ:quốc gia,ngành và sản phẩm đồng thời đạt được sự tăng trưởng nhanh và bền vững.
Tuy nhanh, chậm, và quy mô có khác nhau, nhưng các loại thị trường ở Việt Nam đều chủ yếu được hình thành và phát triển trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa gồm nhiều thành phần và nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, thời gian phát triển chưa nhiều, nhất là so với những nước phát triển có nền kinh tế thị trường đã tồn tại hàng trăm năm, nhưng về cơ bản thể chế kinh tế thị trường ở nước ta đã dần được hình thành.
Đối với những nền kinh tế đang chuyển đổi và có điểm xuất phát thấp như nước ta hiện nay, việc phát triển đồng bộ nền kinh tế nói chung và các loại thị trường nói riêng đều cần có những giải pháp cụ thể, cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Trong vấn đề này, Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo lập điều kiện, môi trường kinh doanh thích ứng để các loại thị trường nhanh chóng hình thành và phát triển. Các chủ thể tham gia thị trường cần có môi trường pháp luật thuận lợi để vận dụng các quy luật của thị trường vào việc tăng trưởng sản xuất.Những năm gần đây, việc phát triển các loại thị trường ở nước ta có nhiều chuyển biến rõ nét. Điều đó được thể hiện trên một số chỉ tiêu cụ thể như: tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu tăng mạnh; việc lưu thông hàng hóa được tự do theo quy luật kinh tế thị trường cùng với sự tăng nhanh sức mua hàng hóa do đời sống nhân dân được cải thiện, làm cho tổng mức lưu chuyển hàng hóa cũng tăng nhanh theo; kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm không ngừng tăng; quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu có chuyển biến tích cực.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng chúng ta vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập cần được lưu ý trong giai đoạn phát triển tiếp theo:
- Tình trạng mất cân đối về trình độ và quy mô phát triển các loại thị trường cơ bản ở nước ta đã tạo ra một lực cản lớn đối với sự phát triển kinh tế. Tình trạng đó không những gây ra hiện tượng bất bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực, mà còn làm cho các nguồn lực của đất nước không được trao cho những chủ thể sử dụng hiệu quả nhất. Hơn nữa tình trạng độc quyền kinh doanh còn làm cho tính cạnh tranh khó phát huy tác dụng tích cực trên các loại thị trường, không ít trường hợp còn làm méo mó thị trường. Hậu quả là mục đích và xu thế phát triển của một số loại thị trường chưa thật sự đồng nhất.
- Kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém làm cho sự liên kết giữa các thị trường cũng như hiệu quả hoạt động của từng loại thị trường còn thấp. Đặc biệt, các thị trường hiện nay chủ yếu thiếu hụt hệ thống cung cấp và lưu giữ thông tin. Thông tin liên thị trường hầu như chưa phát huy tác dụng. Thiếu thông tin cần thiết, các chủ doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và đánh giá đối tác, các giao dịch trở nên đắt đỏ hơn do phải gánh chịu chi phí, rủi ro cao hơn.
- Hành lang pháp lý cho các loại thị trường tuy đã được hình thành, nhưng vẫn tồn tại một số bất cập, cản trở sự phát triển đồng bộ, nhất là các quan hệ mang tính liên kết giữa các loại thị trường. Hệ thống pháp luật điều chỉnh các loại thị trường ở nước ta cũng còn thiếu và chưa đồng bộ, nhất là những luật đã có thường bị lạc hậu nhanh, nên phải chỉnh sửa, bổ sung nhiều lần làm cho môi trường kinh doanh thiếu ổn định và khó lường trước.
- Tính đồng bộ và hoàn thiện của hệ thống thương mại còn thấp. Thị trường bán lẻ phần lớn vẫn còn trong tình trạng phân tán, manh mún và nhỏ lẻ.Hệ thông thương mại có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và vùng sâu, vùng xa. Thị trường dịch vụ còn phát triển chậm.
- Khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế chưa cao. Khả năng thâm nhập và phát triển thị trường quốc tế vẫn chỉ dừng lại ở một số ít mặt hàng truyền thống và chưa ổn định. Sự am hiểu về luật thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa thực sự đầy đủ.
- Công tác phân tích, dự báo thị trường để định hướng sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn nhiều yếu kém.
- Hiệu lực quản lý thị trường của hệ thống pháp luật còn thấp. Điều đó thể hiện ở tình trạng lưu thông hàng giả, hàng kém chất lượng và hàng lậu trên thị trường đang phát triển tràn lan, chưa có biện pháp ngăn chặn kịp thời và hữu hiệu. Sự điều tiết, quản lý vĩ mô của Nhà nước có nhiều thay đổi, song còn chậm so với yêu cầu của cuộc sống. Thị trường trong nước tập trung chủ yếu vào lĩnh vực hàng hóa, chưa chú trọng phát triển thị trường dịch vụ. Tình trạng độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước gây cản trở nghiêm trọng đến sự phát triển của thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ ra phương hướng phát triển cụ thể đối với 5 loại thị trường ở nước ta. Bởi vậy, để những định hướng cơ bản của Đảng sớm đi vào cuộc sống hiện thực của nền kinh tế nước ta, bước đầu xin đề xuất một số giải pháp cơ bản để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường ở nước ta trong những năm tới là:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sở hữu, phát triển nền kinh tế với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, vừa tạo ra sức cung, vừa tạo ra sức cầu cho các loại thị trường. Về mặt lý thuyết, một trong những cơ sở phát triển kinh tế thị trường là có sự tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Do đó, để phát triển thể chế kinh tế thị trường nói chung, các loại thị trường nói riêng, cần đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế thị trường đa sở hữu, nhiều thành phần, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước một cách vững chắc, bảo đảm sản xuất liên tục, hiệu quả trong quá trình cạnh tranh với thị trường trong và ngoài nước. Phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và các hình thức kinh tế tập thể, hợp tác xã kiểu mới...
Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển khoa học và công nghệ. Cùng với quá trình đa dạng hóa sở hữu, phát triển nền kinh tế thị trường đa sở hữu, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ trong sản xuất để làm mối liên hệ trao đổi giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, cũng như mối quan hệ hợp tác trên phạm vi quốc tế ngày càng tăng. Một số giải pháp chủ yếu cho vấn đề này là:
- Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội, cần chú trọng phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng nông thôn, miền núi.
- Điều chỉnh cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, ngành nghề theo yêu cầu phát triển cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế trong các thời kỳ kế hoạch để đến năm 2020 nước ta có một cơ cấu lao động của một nước công nghiệp mới.
- Đẩy mạnh quá trình chuyển giao công nghệ nhằm tạo ra những công nghệ sản xuất phù hợp, tiên tiến, tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Từng bước đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng hiện đại.
- Phải có một chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và xu thế phát triển chung của thế giới.
Ba là, hoàn thiện môi trường thể chế, tôn trọng tự do cạnh tranh và kiểm soát độc quyền. Hoàn thiện môi trường thể chế, trước hết là môi trường pháp lý, để thị trường hoạt động trong một hành lang pháp lý thông thoáng và minh bạch là nhiệm vụ cấp bách để thúc đẩy phát triển các loại thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế. Hiện nay, môi trường pháp lý và năng lực quản lý nhà nước của các cơ quan công quyền chưa thực sự đáp ứng được với yêu cầu phát triển của thị trường. Để tạo môi trường thể chế phát triển các loại thị trường, trước hết cần rà soát lại hệ thống văn bản pháp luật nhằm khắc phục những quy định không thống nhất giữa các văn bản, xóa bỏ những bất cập trong hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành làm ảnh hưởng đến việc hình thành môi trường kinh doanh chung của nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Các văn bản pháp luật phải có tính thực thi cao, phù hợp với thực tiễn và có tính ổn định tương đối. Tránh tình trạng các chủ trương, chính sách được hoạch định khó áp dụng vì chưa có đủ điều kiện và xa rời thực tiễn. Phải tiếp tục nâng cao năng lực của các cơ quan soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, đồng thời nâng cao dân trí và trình độ nhận thức và chấp hành pháp luật.
Muốn tăng nhanh quy mô, trình độ phát triển của thị trường trước hết phải tăng tính cạnh tranh của thị trường, hay nói cách khác là xây dựng môi trường cạnh tranh của thị trường nước ta. Bởi vậy, phải thực hiện nguyên tắc tự do cạnh tranh trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tự do cạnh tranh cũng có những khuyết tật của nó, vì vậy Nhà nước cần quy định, kiểm soát, hướng dẫn cạnh tranh, tạo cơ hội bình đẳng trong cạnh tranh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước là phải nhằm hạn chế những khiếm khuyết của cạnh tranh chứ không phải hạn chế cạnh tranh. Về phương diện này, Nhà nước cần có thái độ rõ ràng đối với tình trạng độc quyền và giải quyết mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh trong nền kinh tế nước ta để vừa bảo đảm phát triển đồng bộ các loại thị trường, vừa bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Là một nước có nền kinh tế thị trường còn sơ khai như nước ta hiện nay, Nhà nước cần tạo điều kiện cho tự do cạnh tranh hơn nữa. Tình trạng độc quyền trong kinh doanh, dưới hình thức các tổng công ty đang làm cho nền kinh tế mất tính hiệu quả. Do chưa thấu hiểu đầy đủ bản chất, vai trò của hàng hóa công cộng và hàng hóa tư nhân trong nền kinh tế, nên chúng ta vẫn để tình trạng độc quyền trong kinh doanh đối với quá nhiều loại hàng hóa. Nhiều loại hàng hóa tiêu dùng thông thường, song vẫn chỉ có một hoặc một số ít doanh nghiệp cung ứng, Nhà nước chưa kiểm soát chặt chẽ những mối liên kết ngầm giữa các nhà sản xuất hay cung cấp. Khi tính cạnh tranh thấp sẽ kìm hãm sự cải tiến, áp dụng những kỹ thuật và phương pháp quản lý tốt nhất, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp độc quyền nâng giá để thu lợi nhuận, thậm chí đầu cơ nâng giá... làm thiệt hại cho người tiêu dùng và cho xã hội. Vì vậy, đối với hầu hết các loại hàng hóa, cần kiên quyết xóa bỏ tình trạng độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh rộng rãi.
Gần đây, trong nền kinh tế nước ta đang diễn ra một hoạt động có tính hạn chế cạnh tranh khác là tập trung hóa và sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước thành tổng công ty, công ty mẹ - con, tập đoàn... Việc "thành lập này" trong nhiều trường hợp đã được lý giải bởi sự cần thiết của việc tăng cường hiệp tác sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đặc biệt trong điều kiện mở cửa, hội nhập và tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Thế nhưng một khía cạnh khác của vấn đề là ở chỗ việc thành lập các tổng công ty, công ty mẹ - con, tập đoàn... Ở nước ta hiện nay phải dựa trên nguyên tắc thị trường, đó là tính hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, cần khắc phục ngay tình trạng sáp nhập hoặc hình thành mới các doanh nghiệp nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính chủ quan, không xuất phát từ những tất yếu về mặt kinh tế. Thiết nghĩ, những lĩnh vực cần phát huy cao độ tính cạnh tranh thì nên hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước, hoặc nếu có phải bảo đảm thực sự bình đẳng.
Bốn là, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho các loại thị trường theo hướng hội nhập, trong đó cần phải chú ý đúng mức đến việc: tăng cường xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường; xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển các loại thị trường; hình thành và phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường; sớm xây dựng thể chế cho việc chính thức ra đời và phát triển các loại giao dịch điện tử, thương mại điện tử... Cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, hiện đại hóa các cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế, thể thao, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triển một nền văn hóa tiên tiến, hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tăng cường vai trò của Nhà nước về kinh tế trên cơ sở đổi mới phương thức quản lý từ chỗ can thiệp trực tiếp vào thị trường sang quản lý vĩ mô. Nhận thức đúng vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển các loại thị trường. Nhà nước có vai trò quyết định trong việc tạo các điều kiện, môi trường để thúc đẩy nhanh hơn sự hình thành và phát triển các loại thị trường, cũng như các yếu tố trong từng loại thị trường theo mục tiêu đã được đề ra, đặc biệt khi nước ta đang đứng trước thềm gia nhập WTO. Nhà nước cần dự báo những gì xảy ra sau khi vào WTO, thông tin đầy đủ và kịp thời cho các doanh nghiệp và có giải pháp tạo môi trường cạnh tranh với các nền kinh tế lớn trong khu vực và quốc tế.
Trong các nền kinh tế thị trường hiện đại, muốn phát triển phải có sự can thiệp của nhà nước. Việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu vai trò của Nhà nước càng cần thiết hơn. Bởi lẽ định hướng xã hội chủ nghĩa phụ thuộc trước hết vào sự can thiệp của Nhà nước, nhất là lĩnh vực phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm phát triển nhanh đồng thời giải quyết tốt các vấn đề xã hội, phát triển bền vững... Đó là chưa nói đến vai trò đó trong việc hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để tránh được những can thiệp quá mức hoặc duy ý chí, chủ quan, vai trò của nhà nước cũng phải dựa trên những tín hiệu của kinh tế thị trường. Điều này thể hiện sự can thiệp của Nhà nước phải phù hợp với nguyên tắc thị trường, phải tôn trọng tính tất yếu của các quy luật kinh tế khách quan (nghĩa là phát huy các mặt mạnh của kinh tế thị trường để sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế). Kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế chủ yếu phải là sự can thiệp gián tiếp, nghĩa là Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và các công cụ chính sách vĩ mô để điều tiết thị trường, tạo ra các "luật chơi chung", làm cho các chủ thể đều đua nhau sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Chính nhờ các công cụ này mà các nhà nước đã can thiệp khá thành công vào kinh tế thị trường hiện đại, giảm thiểu tác hại của các cuộc khủng hoảng thừa - thiếu, bảo đảm được sự phát triển tương đối ổn định và bền vững.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BT707.DOC