Về biểu tượng ngữ âm của thanh điệu ở vị từ có yếu tố sau chỉ mức độ cao trong Tiếng Việt

Vị từ dạng Vx có hình thức từ ghép song tiết.Sự thống nhất giữa

những vị từ loại này trong cơ cấu nghĩa chung là ở sự mơ hồ về nghĩa của

yếu tố x. Ấn tượng ngữ nghĩa mà loạI hình vị mờ nghĩa này mang lại rất

phức tạp và khó nắm bắt. Ấntượng ngữ nghĩa của yếu tố x trong cảm nhận

của người bản ngữ phụ thuộc nhiều vào khả năng và kinh nghiệp giao tiếp

ngôn ngữ, vào sự đánh giá chủ quancủa người sử dụng và còn phụ thuộc

vào vùng phương ngữ. Có một số yếu tố x trong cấu trúc của vị từ Vx chỉ

được sử dụng, có tính chất lâm thời trong một ngữ cảnh cụ thể. Tuy nhiên,

khi được dùng để làm phương tiện giao tiếp, góp phần bộc lộ sự đa dạng

trong sắc thái biểu cảm của ngôn ngữ nói thì chúng dễ dàng được chấp nhận

trong cộng đồng ngôn ngữ đó và được hiểu nghĩa một cách chính xác.

pdf11 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Về biểu tượng ngữ âm của thanh điệu ở vị từ có yếu tố sau chỉ mức độ cao trong Tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VỀ BIỂU TƯỢNG NGỮ ÂM CỦA THANH ĐIỆU Ở VỊ TỪ CÓ YẾU TỐ SAU CHỈ MỨC ĐỘ CAO TRONG TIẾNG VIỆT HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH (*) Vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao là một lớp từ có cấu trúc ngữ nghĩa khác đặc biệt trong tiếng Việt. Về cấu tạo, vị từ loại này thường có hình thức song tiết gồm: một hình vị gốc + một hình vị mờ nghĩa (biểu thị mức độ cao). Chẳng hạn như: chán phèo, cấm tiệt, nhắm nghiền, xanh lè, nhọn hoắt…Trong bài viết này, chúng tôi tạm gọi những vị từ loại này là vị từ dạng Vx (V: hình vị gốc; x hình vị biểu thị mức độ cao). Trong quá trình khảo cứu về lớp vị từ này, chúng tôi thấy rằng hiện nay chưa có sự thống nhất hoàn toàn giữa các nhà nghiên cứu Việt ngữ trong quan niệm về cương vị ngôn ngữ học của yếu tố x. Từ đó, vấn đề đặc trưng ngữ nghĩa của yếu tố x cũng chưa được đánh giá một cách hệ thống nhất. Một số người cho rằng x là những “ngữ vị tự thân không có ý nghĩa” [19; 168]; “hình vị mất nghĩa” [3;48]… Một số người khác cho rằng x có “nghĩa phân biệt” [22; 114] hoặc “nghĩa khu biệt” [17; 16]. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành lại đặc biệt nhấn mạnh đến “sắc thái biểu cảm”, “ý nghĩa ấn tượng” của những “trạng ngữ chỉ mức độ tốI cao (superlatif) của các tính/ động từ đi trước” [6; 44] và x thực sự có thể được xem là những từ có ý nghĩa bị lù mờ” [9; 112]. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tạm xem Vx là một vị từ và quan tâm đến vấn đề biểu trưng ngữ âm của thanh điệu trong yếu tố x của vị từ Vx. 1. CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ: Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu ít đề cập đến tính biểu trưng của các yếu tố ngữ âm vì đây là một vấn đề khá tế nhị, nó động chạm đến một nguyên lý đặc biệt quan trọng: Về bản chất, mốI quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong ngôn ngữ là võ đoán. Nhưng trong thực tế, các yếu tố ngữ âm của tiếng Việt, đặc biệt là các yếu tố như phụ âm đầu, khuôn vần và thanh điệu trong từ láy, từ tượng thanh, từ biểu tượng… thực sự có một giá trị biểu trưng nhất định. Những năm gần đây, trong một số bài báo hoặc một số công trình nghiên cứu, nhiều người đã có sự quan tâm nhất định đến tính biểu trưng của các yếu tố ngữ âm. 1.1 Về giá trị biểu trưng của khuôn vần và phụ âm đầu, trong tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1985, Võ Bình đã có nhận xét: “Với ấp – ênh (trong bấp bênh, gập gềnh, khấp khểnh) ta thấy sự diễn tả cái gì không bằng phẳng, không đều đặn, không ổn định, với l – kh (trong lù khù, lờ khờ, lừng khừng, lụ khụ) ta thấy diễn tả cái gì chậm chạp và không dứt khoát, với ắn (trong vuôn vắn, ngay ngắn, tươi tắn, đứng đắn) ta thấy diễn tả cái gì đạt đến tính chất mẫu mực.” [1; 54 – 55]. Trong một số côn trình nghiên cứu. Phi Tuyết Hinh đã đặt vấn đề tìm hiểu “vấn đề biểu trưng ngữ âm” của các khuôn vần trong “từ biểu tượng tiếng Việt”, đặc biệt là trong từ láy không rõ thành tố gốc. Đây là một vấn đề lý thú nhưng khá tế nhị vì theo như tác giả đã nhận định “mối tương quan âm – nghĩa trong tiếng Việt dường như vẫn bị xem là hiện tượng rời rạc, lẻ tẻ, không có tính quy tắc và tính hệ thống!” [11; 10]. Dĩ nhiên, đây chỉ là những nhận xét ban đầu về vấn đề này cho tác giả vẫn còn khá dè dặt trong cách tiếp cận và xem đây là những “ấn tượng ngữ nghĩa” từ mối quan hệ âm – nghĩa của biểu tượng trong tiếng Việt. Mới đây, Tomita Kenje, một nhà ngôn ngữ học người Nhật đã chứng minh rằng trong tiếng Việt có “những từ liên quan đến nhau về mặt nghĩa đồng thời cũng lại có những điểm chung về mặt âm vận” [21; 30]. Theo ông, hiện tại chưa có cơ sở để giải thích một cách thoả đáng về những nguyên nhân của hiện tượng này. 1.2 Về giá trị biểu trưng của thanh điệu, trong luận án PTS. Khoa học ngữ văn “Nghiên cứu về chức năng của thanh điệu tiếng Việt (theo phương pháp định lượng)”, Võ Xuân Hào đã đề cập đến “chức năng gợi tả” [8; 38 – 96] của thanh điệu tiếng Việt. Từ kết quả điều tra ngữ cảm ở người bản ngữ, tác giả đã rút ra những kết luận quan trọng chứng mịnh cho nhận định: “Thanh điệu tiếng Việt ngoài chức năng khu biệt còn có chức năng gợi tả” [8; 91]. Trong luận văn, tác giả đã mở rộng phạm vị khảo sát về tính biểu trưng của thanh điệu không chỉ ở từ láy mà ở cả từ đơn tiết. 2. KHẢO SÁT VỀ BIỂU TƯỢNG NGỮ ÂM Ở THANH ĐIỆU CỦA YẾU TỐ X TRONG VỊ TỪ VX Sau khi tiến hành thống kê các vị từ loại này trong “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê, 1994), chúng tôi thu được 649 từ có cấu tạo theo kiểu Vx, chiếm tỷ lệ 1,7% trong tổng số mục từ có trong từ điển (38, 410 mục từ). Ngoài ra, chúng tôi còn thu nhập được 272 từ thuộc loại từ các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại (274 tác phẩm). Và điều đặc biệt là các từ này chỉ được sử dụng phổ biến trong một số vùng phương ngữ nên chưa được đưa vào từ điển. Trước khi tiến hành khảo sát về biểu tượng ngữ âm ở thanh điệu của yếu tố x trong vị từ Vx, vấn đề đầu tiên mà chúng tôi muốn đề cập là cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ này. 2.1 Cấu trúc ngữ nghĩa của vị từ Vx Vị từ Vx có cấu trúc gồm một hình vị tự do V (free form) và một hình vị hạn chế x (bound form) và một hình vị hạn chế x (bound form). Trong cấu trúc Vx, x là hình vị mờ nghĩa. Về phương diện lịch đại, việc xác định nguồn gốc các yếu tố x không phải là không làm được. Trong tiếng Việt “có khoảng 2800 đơn vị có yếu tố vô nghĩa trong tổng số khoảng 24.500 từ đa âm” [23; 178 – 185]. Các nhà nghiên cứu từ nguyên học đã tìm cách làm sáng tỏ nguồn gốc của một số đơn vị kể trên. Việc làm này cho đến nay chỉ thu được một số kết quả khiêm tốn: chưa đến 100 đơn vị phục nguyên nghĩa gốc [dẫn theo 14; 137]. Rải rác trên một số tạp chí, ở một số báo cáo khoa học, các nhà nghiên cứu như Lê Trung Hoa [11] – [12], Phan Ngọc [16], Tô Hùng [14]… đã cố gắng truy tìm của các yếu tố mất nghĩa. Trong danh sách đó, chúng tôi tìm thấy một số yếu tố thuộc về lớp từ mà chúng tôi đang xét. Nhìn chung, các yếu tố mất nghĩa có thể có những nguồn gốc như sau: - Một số yếu tố x có nguồn gốc Khmer. Theo Tô Hùng, au (đỏ-)/ ch au: đỏ đều và đậm, bóc (trắng-)/ k bok: rất trắng, bong (trăng-)/ p rông: trắng trên diện rộng, chót (đỏ-)/ x’ oat: đẹp, sạch, cỡn (nhảy-)/ konh chơng: vui quá mức, lẻm (sắc-)/ x’ lem: sắc và mỏng nhọn, loét (đỏ-)/ t let: rất đỏ… [14; 137]. Về vấn đề này, Phan Ngọc [16; 302 – 304] cũng có những ý kiến tương tự. - Một số khác có thể là gốc Mường hoặc gốc Hán: Theo Nguyễn Tài Cẩn, “có lẽ xanh lè, trắng bệch, thơm phức trước kia cũng có thời kỳ được nhận thức như thuộc kiểu láy nghĩa là ở vùng Mường Ngọc Lạc (Thanh Hoá) có nghĩa là xanh, bệch vốn bắt nguồn từ yếu tố bạch (trắng) gốc Hán Việt, phức trong tiếng Hán cũng có nghĩa là thơm” [2; 57]. Như vậy, các yếu tố x có thể có nguồn gốc bản địa gần với các ngôn ngữ ờ vùng Đông Nam Á nhưng hiện nay chúng hầu như đã hoàn toàn mất hẳn nghĩa vật chất. Có thể trước kia chúng là những thực từ đơn tiết nhưng trong sự biến đổi và phát triển của từ ngữ theo thời gian nên vỏ ngữ âm của chúng đã bị biến đổi. Các yếu tố x có thể là từ cổ, từ địa phương, từ gốc Hán đã bị biến đổi nhiều về ngữ âm. Ở bình diện đồng đại, các yếu tố x là những không độc lập về mặt cú pháp, chỉ là một loại “hình vị mờ nghĩa”. Nó không có cái nội dung minh xác như những hình vị khác mà chỉ có tác dụng khu biệt từ với những từ khác về phạm vi sử dụng và sắc thái biểu cảm. Như trên chúng tôi đã trình bày, x trong vị từ Vx không mang nghĩa vật chất cụ thể, chỉ biểu đạt một sắc thái, một thái độ đánh giá về đặc điểm tính chất, hoạt động được miêu tả ở V. Có ngườI nhận xét: vị từ Vx “có tác dụng biểu thị sự đánh giá chủ quan của người nói đồng thời gợi tả một sắc thái riêng nào đó, một cường độ tuyệt đối trong lời nói.” [24; 13]. Có thể tạm xem sắc thái nghĩa được biểu thị ở yếu tố x là “ấn tượng ngữ nghĩa” do ấn tượng âm thanh” ấy mang đến cho người sử dụng trong một quy ước chung nằm trong cảm nhận của người bản ngữ. Hiện nay, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học chưa tìm ra cơ cấu nghĩa của chúng nhưng người bản ngữ lại nhận biết về “ấn tượng âm thanh” của chúng một cách khá nhạy cảm. Đôi khi sự cảm nhận này diễn ra một cách tự nhiên mang tính kinh nghiệm vì thế nên khó có thể giải thích một cách rạch ròi. Người bản ngữ có thể “cảm” được chúng ngay cả khi chưa hiểu rõ chúng. Đây là một hiện tượng bình thường, có trong tất cả các ngôn ngữ khác trên thế giới. Có những từ ngữ mà chỉ có người bản ngữ mới có thể hiểu đúng và dùng chính xác. Theo Chu Bích Thu, “ấn tượng âm thanh là âm hưởng do toàn bộ âm tiết hoặc một bộ phận của âm tiết tạo nên, do được sử dụng lặp đi lặp lại mà có khả năng gợi lên những ấn tượng ngữ nghĩa nhất định ở người nói ngôn ngữ ấy. Đó chính là mối liên hệ giữa âm và nghĩa của từ. Về bản chất, ngôn ngữ vẫn là võ đoán và mối liên hệ giữa âm và nghĩa là cái có tính chất văn hoá chứ không phải là cái có tính chất tự nhiên.” [19; 65]. Như vậy, “ấn tượng âm thanh” hay biểu tượng ngữ âm là vấn đề đã được đề cập từ trước. Trong một số công trình nghiên cứu như trên đã dẫn, các tác giả cũng thừa nhận điều này. Tuy nhiên, việc khảo sát “ấn tượng âm thanh” hầu như chỉ trong phạm vi từ láy hoặc một số từ đơn có sự gần gũi về mặt ngữ âm. Trong vị từ Vx, yếu tố là x là một yếu tố đã và đang mất dần nghĩa vật chất. Mức độ mờ nghĩa của các hình vị trong vị từ Vx có sự khác nhau vì sự biến đổi nghĩa của các hình vị diễn ra không đều. Chúng tôi đặc biệt lưu ý những yếu tố x đã hoàn toàn mất nghĩa từ vựng, dùng để biểu đạt một sắc thái nào đó của V. Chẳng hạn như: ngắt (chán ngắt, lặng ngắt, xanh ngắt, tím ngắt…), phèo (chán phèo, nhạt phèo), tênh (buồn tênh, nhẹ tênh), lè (chát lè, chua lè, xanh lè, vàng lè…) Trong trường hợp này, nghĩa của yếu tố x rất gần với các hình vị láy trong từ láy để tạo nên một sắc thái nào đó. Vì vậy, các thành tố ngữ âm đặc biệt là thanh điệu trong yếu tố x có những giá trị biểu trưng nhất định. Tính biểu tượng của thanh điệu ở yếu tố x được hiểu là những ấn tượng âm thanh do thanh điệu trong âm tiết tạo nên, do được sử dụng lặp đi lặp lại mà có khả năng gợi lên những ấn tượng ngữ nghĩa nhất định ở người bản ngữ. Điều này có nghĩa là có một mối tương quan nhất định giữa sắc thái nghĩa và thanh điệu ở yếu tố x. Khi xem xét các yếu tố x trong các vị từ dạng Vx ở bình diện khả năng biểu thị sắc thái tình cảm, biểu thị sự đánh giá, chúng tôi tạm chia các yếu tố x thành 3 nhóm: - Nhóm biểu thị sắc thái tích cực (positif) - Nhóm biểu thị sắc thái tiêu cực (négatif). - Nhóm biểu thị sắc thái trung hoà: Đây là những yếu tố x chưa ổn định về hướng biểu cảm, màu sắc biểu cảm không rõ ràng như những yếu tố trong hai nhóm trên, nên ở đây chúng tôi tạm phân chúng thành hai nhóm nhỏ hơn: -Sắc thái biểu cảm thiên về tích cực. -Sắc thái biểu cảm thiên về tiêu cực. Trong thực tế, sắc thái biểu cảm của các yếu tố x trong cấu trúc của vị từ loạI này vừa đa dạng, vừa tinh tế, vừa linh hoạt. Hướng đánh giá và sắc thái biểu cảm cụ thể như thế nào là tuỳ thuộc vào nhận thức của người bản ngữ. 2.2 Kết quả điều tra ngữ cảm Để khắc phục những hạn chế trong sự đánh giá và nhằm đi đến một nhận thức chân thực hơn về sắc thái nghĩa và tính biểu trưng ngữ âm trong yếu tố x ở vị từ Vx. Trong 5 năm trở lại đây, chúng tôi đã tiến hành hai đợt thực nghiệm điều tra ngữ về vấn đề này ở ngườI bản ngữ. Đợt 1: Điều tra ngữ cảm trên diện rộng. Chọn 20 từ bất kỳ trong số 649 từ thu được trong “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê, 1994) để đưa vào phiếu điều tra. Phiếu điều tra được phát trên phạm vi rộng (450 phiếu) vào cùng một thời điểm (tháng 11/ 1996). Kết quả thu được cho thấy, trong nhận thức của người bản ngữ, các vị từ Vx biểu thị những sắc thái biểu cảm khác nhau trên đã trình bày. 60% trường hợp có sự thống nhất đánh giá. Chúng tôi đã trình bày chi tiết kết quả điều tra này trong một bài viết năm 1999 [10; 53 – 54]. Đợt 2: Điều tra ngữ cảm trên diện hẹp. a. Các bước tiến hành thực nghiệm Bước 1: chọn 50 từ trong đó yếu tố V là những yếu tố không mang nghĩa biểu thái tự thân (yếu tố chỉ màu sắc) trong số 649 từ thu được trong “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê, 1994) để đưa vào phiếu điều tra. Các từ được lấy theo trật tự trong từ điển. Bước 2: Phiếu điều tra được phân phát trên phạm vi hẹp (100 phiếu) vào cùng một thời điểm (tháng 11 – 2000). Mỗi tham nghiệm viên được phát phiếu và thu lại phiếu trong khoảng thờI gian 15 phút kể từ lúc bắt đầu phát phiếu. Bước 3: Thống kê và xử lý cứ liệu thu được, rút ra nhận xét. b. Đối tượng thực nghiệm Thực nghiệm ngữ cảm về các vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao trong tiếng Việt đã được tiến hành với 100 phiếu tra ở 100 tham nghiệm viên (dân tộc Kinh chiếm 98%, dân tộc ít người chiếm 2%) là sinh viên năm thứ 1, khoa Ngoại ngữ, trường ĐH Sư phạm Quy Nhơn. c. Yêu cầu đối với tham nghiệm viên Bạn có cảm nhận gì về sắc thái biểu cảm của những vị từ cho dưới đây? Xin bạn vui lòng trả lời câu hỏi này bằng cách đánh dấu (x) vào một trong 3 ô theo 3 mức độ: tích cực, trung hoà, tiêu cực sao cho phù hợp với cảm nhận của bạn về nghĩa của những từ đã cho. Lưu ý: chỉ được đánh dấu (x) vào một trong 3 ô. d. Kết quả thực nghiệm Kết quả điều tra cảm được trình bày trong bản thống kê dưới đây: Biểu thị thái độ Từ Tích cực Trung hoà Tiêu cực Đánh giá chung 1. đen kịt 1% 24% 75% Tiêu cực 2. đen lánh 80% 19% 1% Tích cực 3. đen láy 66% 33% 1% Tích cực 4. đen nghịt 1% 34% 1% Tiêu cực 5. đen ngòm 1% 17% 82% Tiêu cực 6. đen nhánh 91% 7% 2% Tích cực 7. đen nhẻm 1% 42% 57% Tiêu cực àtrung hoà 8. đen nhức 31% 50% 19% Trung hoà 9. đen sì 1% 3% 96% Tiêu cực 10. đen trũi 14% 36% 50% Tiêu cực àtrung hoà 11. đỏ au 72% 25% 3% Tích cực 12. đỏ cạch 3% 28% 69% Tiêu cực 13. đỏ choé 9% 23% 68% Tiêu cực 14. đỏ chót 34% 13% 53% Tiêu cực 15. đỏ đọc 2% 33% 65% Tiêu cực 16. đỏ gay 2% 45% 53% Tiêu cực àtrung hoà 17. đỏ hoét 1% 13% 86% Tiêu cực 18. đỏ hỏn 28% 63% 10% Trung hoà 19. đỏ kè 6% 34% 60% Tiêu cực 20. đỏ khè 0% 29% 71% Tiêu cực 21. đỏ khé 4% 44% 52% Tiêu cực àtrung hoà 22. đỏ loét 2% 9% 89% Tiêu cực 23. đỏ lòm 2% 18% 80% Tiêu cực 24. đỏ lừ 12% 27% 61% Tiêu cực 25. đỏ nhừ 13% 49% 38% Trung hoà àtiêu cực 26. đỏ nọc 3% 37% 60% Tiêu cực 27. đỏ ốI 52% 25% 23% Tích cực 28. đỏ quạch 4% 40% 56% Tiêu cực 29. trắng bệch 3% 5% 92% Tiêu cực 30. trắng bong 59% 40% 1% Tích cực àtrung hoà 31. trắng bốp 70% 23% 7% Tích cực 32. trắng dã 6% 28% 66% Tiêu cực 33. trắng hếu 14% 18% 68% Tiêu cực 34. trắng lốp 75% 7% 18% Tích cực 35. trắng muốt 97% 2% 1% Tích cực 36. trắng ngần 88% 13% 2% Tích cực 37. trắng nhởn 3% 33% 64% Tiêu cực 38. trắng phau 86% 13% 1% Tích cực 40. trắng phếch 10% 31% 59% Tiêu cực 41. trắng toát 55% 30% 15% Tích cực àtrung hoà 42. trắng xoá 72% 26% 2% Tích cực 43. vàng choé 16% 23% 61% Tiêu cực 44. vàng ệch 1% 13% 86% Tiêu cực 45. vàng khè 1% 17% 82% Tiêu cực 46. vàng khè 4% 40% 56% Tiêu cực 47. vàng ối 50% 38% 12% Tích cực àtrung hoà 48. vàng rộm 62% 36% 2% Tích cực 49. vàng xuộm 22% 58% 20% Trung hoà 50. vàng ươm 96% 4% 0% Tích cực Nhận xét chung: Kết quả điều tra đợt 1 cho phép chúng tôi đi đến kết luận: Trong cấu trúc nghĩa của vị từ Vx có một sắc thái biểu cảm khá ổn định. Tuy nhiên kết quả vẫn chưa cho biết những sắc thái biểu cảm này xuất phát từ đâu. Trong quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy một số tham nghiệm viên mặc dù chưa hiểu rõ nghĩa của một số từ trong phiếu điều tra nhưng vẫn có thể xác định chính xác sắc thái biểu cảm của từ. Phần lớn sắc thái ngữ nghĩa của từ được xác định là do từ hay xuất hiện trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng nhất. Mặt khác, chúng tôi còn nhận thấy thanh điệu của yếu tố x trong vị từ Vx có sự tương ứng nhất định với một nghĩa biểu cảm nào đó của từ. Vì vậy chúng tôi tiến hành điều tra ngữ cảm đợt 2 với 100 phiếu phát ra, trong đó có 50 từ có ý nghĩa khá gần gũi (V đều là yếu tố chỉ màu sắc, trung hoà về nghĩa biểu cảm), sự khác nhau chủ yếu là ở yếu tố x. Kết quả thu được cho thấy những nhận định ban đầu của chúng tôi là có cơ sở. 3. TÍNH BIỂU TRƯNG CỦA THANH ĐIỆU TRONG CẤU TRÚC NGỮ NGHĨA CỦA VỊ TỪ VX Thông thường người ta chỉ nói đến sự hoà phối thanh điệu trong từ láy để tạo ra một ấn tượng ngữ nghĩa nào đó, còn trong từ ghép vấn đề này hầu như không được quan tâm. Vị từ dạng Vx có hình thức từ ghép song tiết. Sự thống nhất giữa những vị từ loại này trong cơ cấu nghĩa chung là ở sự mơ hồ về nghĩa của yếu tố x. Ấn tượng ngữ nghĩa mà loạI hình vị mờ nghĩa này mang lại rất phức tạp và khó nắm bắt. Ấn tượng ngữ nghĩa của yếu tố x trong cảm nhận của người bản ngữ phụ thuộc nhiều vào khả năng và kinh nghiệp giao tiếp ngôn ngữ, vào sự đánh giá chủ quan của người sử dụng và còn phụ thuộc vào vùng phương ngữ. Có một số yếu tố x trong cấu trúc của vị từ Vx chỉ được sử dụng, có tính chất lâm thời trong một ngữ cảnh cụ thể. Tuy nhiên, khi được dùng để làm phương tiện giao tiếp, góp phần bộc lộ sự đa dạng trong sắc thái biểu cảm của ngôn ngữ nói thì chúng dễ dàng được chấp nhận trong cộng đồng ngôn ngữ đó và được hiểu nghĩa một cách chính xác. Ở đây, không thể phủ nhận vai trò của các thành tố ngữ âm, trong đó có vai trò của thanh điệu. Thanh điệu “luôn luôn là thành phần bắt buộc phải có mặt của từng âm tiết, cho nên cái quan trọng trong ngữ điệu của câu tiếng Việt là tiết tấu, cường độ và trường độ; tuyền điệu của câu rất bị hạn chế vì một lý do đơn giản: sự lên giọng, xuống giọng - một cách biến hoá về cao độ của ngữ âm – có thể ảnh hưởng đến thanh điệu, làm cho ý nghĩa của từ của câu biến đổi.” [4; 45]. Theo Võ Xuân Hào, thanh điệu có khả năng thể hiện “nghĩa gợi tả” [8; 39]. Bằng những cứ liệu thống kê cụ thể, tác giả đã chứng minh rằng “chức năng thể hiện nghĩa cảm tính của thanh điệu tiếng Việt được thể hiện chủ yếu ở nét khu biệt về âm vực và đường nét diễn biến độ cao. Sự đối lập giữa các thanh điệu có âm vực và đường nét khác nhau đã gây nên những khả năng liên tưởng không hoàn toàn trùng khít nhau, khác nhau và thậm chí đối lập nhau ở những nét gợi tả mà thanh điệu thể hiện trong các từ đơn tiết và song tiết có cùng khuôn âm tiết chỉ khác nhau về thanh điệu.” [8; 96]. Kết quả khảo sát đợt 2 cho thấy có sự tương ứng về sắc thái biểu cảm ở một số thanh điệu nhất định. Dựa và bảng 1, lấy kết quả đánh giá chung, ta thấy trong 50 từ được đưa ra khảo sát, các thanh điệu của yếu tố x có sự tương ứng với các sắc thái biểu cảm như sau: Âm vực cao Âm vực thấp Bằng phẳng Không bằng phẳng Bằng phẳng Không bằng phẳng Thanh điệu STBC Ngang Ngã Sắc Huyền Hỏi Nặng Tích cực 4 0 10 1 0 1 Trung hoà 0 0 2 1 1 1 Tiêu cực 1 2 8 7 3 8 Tổng cộng 5 2 20 9 4 10 50 Từ bảng 2 có thể rút ra một số nhận xét về sự tương ứng giữa sắc thái nghĩa với thanh điệu ở yếu tố x: - Cùng là thanh điệu có đường nét bằng phẳng nhưng thanh có âm vực cao (ngang) có xu hướng biểu đạt sắc thái tích cực, còn thanh có âm vực thấp (huyền) có xu hướng biểu đạt sắc thái tiêu cực. Ngang: 4/5 (chiếm tỷ lệ 80%) có đánh giá tích cực. Huyền: 7/9 (chiếm tỷ lệ 77%) có đánh giá tiêu cực. - Những thanh có đường nét không bằng phẳng, gãy (hỏi, ngã) có xu hướng biểu đạt sắc thái tiêu cực. Hỏi 2/2 (chiếm tỷ lệ 100%) có đánh giá tiêu cực. Ngã: 3/ 4 (chiếm tỷ lệ 75%) có đánh giá tiêu cực. -Cùng là thanh có đường nét không bằng phẳng, không gãy nhưng thanh có âm vực thấp (nặng) có tính biểu trưng rõ ràng hơn, thiên về đánh giá tiêu cực. Trong khi đó, thanh có âm vực cao biểu thị mức độ cao ở cả 2 hướng tích cực và tiêu cực. Nặng: 8/ 10 (chiếm tỷ lệ 80%) có đánh giá tiêu cực. Sắc: 10/ 20 (chiếm tỷ lệ 50%) có đánh giá tích cực, 8/ 20 (chiếm tỷ lệ 40%) có đánh giá tiêu cực. Nếu như các thanh ở âm vực cao có xu hướng đánh giá ở cả 2 hướng tích cực và tiêu cực: 14/ 27 (chiếm tỷ lệ 52%) đánh giá tích cực, 11/ 27 (chiếm tỷ lệ 40%) đánh giá tiêu cực; sự đánh giá thiên về tiêu cực: 18/ 23 (chiếm tỷ lệ 77%) đánh giá tiêu cực. Trong bài viết, chúng tôi chỉ mới đề cập tính biểu trưng ngữ âm của thanh điệu trong yếu tố x mà không đề cập đến tính biểu trưng của âm đầu và vần vì chưa có điều kiện khảo sát tỉ mỉ về các thành tố này. Trên đây là một vài nhận xét bước đầu qua những số liệu khảo sát cụ thể. Tuy nhiên, những nhận xét mà chúng tôi nêu ra đôi chỗ có thể vẫn còn mang tính chất chủ qua, phiến diện vì chưa có được một số liệu thống kê đầy đủ. Dầu vậy, đây là những gợi ý quan trọng định hường cho việc nghiên cứu tiếp theo. Thiết nghĩ, vấn đề này cần phải được kiểm chứng bằng những đột khảo sát điều tra ngữ cảm khác quy mô hơn và hệ thống hơn. Chúng tôi hy vọng sẽ có những cuộc thảo luận, trao đổi ý kiến rộng rãi về chủ đề này. AN INVESTIGATION INTO PHONETIC SYMBOL OF TONES IN VIETNAMESE PREDICATIVES WITH NEXT MORPHEMES EXPRESSING SUPERLATIVE DEGREES HUYNH THI HONG HANH Predicatives with next morphemes expressing superlative degrees (Vx) are double syllable collocations such as: chan pheo, cam tiet, do au, xanh le, nhon hoat . Study the problem of phonetic symbols in next morphemes (x) of Vx predicatives basing on the processing of the research results from two lingual emotion surveys for natives is the main purpose/ content of this article. It is necessary to make some remarks on phonetic symbols of tones in Vx predicatives based on some particular research figures in order to contribute to the study on these predicatives semantic characteristics. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Võ Bình - Ở bình diện cấu tạo từ xét các kiểu hình vị tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3/ 1985. 2. Nguyễn Tài Cẩn - Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng - từ ghép - đoản ngữ), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1975. 3. Đỗ Hữu Châu - Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 1981. 4. Hồng Giao - Thử tìm hiểu một số đặc điểm của tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1 và 2/ 1974. 5. Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng học tiếng Việt NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985. 6. Cao Xuân Hạo - Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng, Ngôn ngữ số 2/ 1985. 7. Cao Xuân Hạo - Một số biểu hiện của cách nhìn Âu Châu đối với cấu trúc tiếng Việt (in trong “Những vấn đề ngôn ngữ học về các Ngôn ngữ phương Đông”, 1986). 8. Võ Xuân Hào - Luận án PTS – Nghiên cứu về chức năng của thanh điệu tiếng Việt, Hà Nội, 1996. 9. Hoàng Văn Hành (chủ biên) - Từ tiếng Việt (hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại) NXB. Khoa học xã hội, 1988. 10. Huỳnh Hồng Hạnh - Một hướng giải nghĩa từ trên cơ sở đối chiếu vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao trong tiếng Việt với các yếu tố tương đương trong tiếng Anh – Thông báo khoa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Tp. Hồ Chí Minh, 1999. 11. Phi Tuyết Hinh - Từ láy không rõ nguồn gốc và vấn đề biểu trưng ngữ âm trong từ biểu tượng tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1/ 1998. 12. Lê Trung Hoa – Xác định nguồn gốc một số từ, Ngôn ngữ số 9/ 1999. 13. Lê Trung Hoa - Hiện tượng đồng hoá trong một số từ ngữ song tiết tiếng Việt – Ngôn ngữ số 4/ 2000. 14. Tô Hùng – Tìm và hiểu thêm về những tiếng được xem là mất nghĩa trong các từ song tiết tiếng Việt hiện đại (qua so sánh với tiếng Khmer), Ngữ học Trẻ 98. 15. Hồ Lê - Cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1976. 16. Phan Ngọc - Một số từ Việt cùng gốc với Khmer, (in trong “Những vấn đề ngôn ngữ học vè các ngôn ngữ phương Đông”, 1986). 17. Đái Xuân Ninh - Hoạt động của từ tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 1978. 18. Hoàng Phê (chủ biên) - Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội, Trung tâm từ điển học, 1994. 19. Nguyễn Kim Thản – Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, 1996. 20. Chu Bích Thu – Thêm một nhận xét về sự hình thành từ láy trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 2/ 1998. 21. Tomita Kenji - Một khảo sát về hệ thống sản sinh từ vựng trong tiếng Việt nhằm góp phần nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1/ 1999. 22. Nguyễn Văn Tu - Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa học xã hội, 1978. 23. Phạm Hùng Việt – Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (tập 2), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981. 24. Hoàng Vũ – Góp thêm những tư liệu về các ngữ vị tình cảm và gợi tả trong phương ngữ Nam bộ - Ngôn ngữ và Đời sống số 5/ 1995.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhtduifjopiadgjiadugoierugihadpgo (47).pdf