Là bệnh hay gặp trên thế giới. Nó chiếm 1-2 bệnh nhân da liễu ở vùng ôn
đới ( nơi mùa đông kéo dài) chưa thấy sự khác biệt lớn về tỷ lệ giưã các nhóm
người và qua các năm nhưng hay gặp ở phụ nữ ( 58-60 % bệnh nhân). Tuổi của
bệnh nhân trung bình là 35 và cá biệt có ở trẻ em hay người già ( có thể ở trẻ sơ
sinh hayngười 90 tuổi).
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Vẩy phấn hồng Gibert ( PITYRIASIS ROSEA), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vẩy phấn hồng Gibert
( PITYRIASIS ROSEA)
Giáo trình Bệnh Da và hoa liễu HVQY
1. Định nghĩa:
Là bệnh cấp tính, tự miễn, có khả năng lây truyền hay gặp ở trẻ em và ngư-
ời trẻ, đặc trưng bởi tổn thương da đặc hiệu, còn toàn trạng ít ảnh hưởng .
2- Bệnh sinh:
Là bệnh hay gặp trên thế giới. Nó chiếm 1-2 bệnh nhân da liễu ở vùng ôn
đới ( nơi mùa đông kéo dài) chưa thấy sự khác biệt lớn về tỷ lệ giưã các nhóm
người và qua các năm nhưng hay gặp ở phụ nữ ( 58- 60 % bệnh nhân). Tuổi của
bệnh nhân trung bình là 35 và cá biệt có ở trẻ em hay người già ( có thể ở trẻ sơ
sinh hayngười 90 tuổi).
3. Căn nguyên của bệnh chưa rõ. Về dịch tễ học và hình ảnh lâm sàng có
thể nói rằng nó là bệnh truyền nhiễm, ở vùng Transvaal có một thời kỳ kéo dài từ
2- 4 năm , có một " dịch" tự nhiên bệnh nhân tăng vọt ( có từ 2-4 cá thể bị bệnh ở
một gia đình hoặc ở trờng học) nhưng không có một báo cáo chính thức nào nói
về sự lây truyền của bệnh. ở Australia cũng có tìm được sự liên quan giữa các tr-
ường hợp xảy ra của bệnh. Từ 1892 Lassar quan sát thấy bệnh có liên quan đến
mặc quần áo mới hoặc quần áo đã cất đi một thơì gian. Sự truyền nhiễm qua quần
áo hoặc qua côn trùng cư trú trong quần áo cũng chưa được chứng minh.
Trong bệnh sử, với tổn thương thông thường ( lan toả sang bên cạnh) tổn
thương thứ phát, tự nhiên dừng lại, đã chứng minh nó rất giống với một bệnh
truyền nhiễm chính cống.
Có nhiều tác giả hy vọng rằng bệnh do một loài siêu vi khuẩn nhưng không
được chứng minh và cả nấm , vi khuẩn , xoắn khuẩn cũng như vậy, còn lại là do
vi rút, nó đáng được xem xét và khả năng nhất. Có tác giả đã sơ bộ xác định là do
virut Epstein - Barr ( là một loại virut ADN thuộc họ Herpès virut ) ( thông th-
ường thì vi rus E-B gây bệnh tăng bạch cầu đơn nhân ). Một số tác giả đã làm lây
truyền được bệnh qua vảy da và qua thanh dịch của mụn nước ở tổn thương.
Sự mẫn cảm của bệnh có sự liên quan với các yếu tố chung khác như thể
địa dị ứng, eczema, hen, so sánh với nhóm chứng .
4.Mô bệnh học :
Biến đổi giải phẫu bệnh không đặc hiệu, phù và thâm nhiễm nhẹ ở trung bì,
có hiện tượng xốp bào ( Spongiosis ) ở lớp thợng bì, có thể có á sừng. Nếu có
mụn
nước thì ở dưới lớp sừng.
5. Lâm sàng:
Lúc đầu bệnh biểu hiện không rõ ở 50 % trường hợp. Bệnh nhân cảm thấy
đau đầu, sốt nhẹ, mệt mỏi. Tổn thương tiên phát thường hay ở phía trên thân ng-
ười: , cánh, cẳng tay, cổ. Có thể ở mặt, đầu hay thân dương vật. Tổn thương là các
đám tròn hay ê líp có giới hạn rõ, màu đỏ nhạt trên phủ vảy. Đám tổn thương có
đường kính 2- 5 cm hoặc có khi rộng hơn. Tổn thương kéo dài 5- 15 ngày . Có thể
ngắn vài giờ hoặc kéo dài 2 tháng. Tổn thương ( thứ phát) tràn lan bắt đầu biểu
hiện sau 2-3 ngày hoặc đến 10 ngày . Các tổn thương mới kế tiếp phát triển vài
tuần sau. Hình thái cổ điển tổn thương bao gồm: ban mề đay xung quanh, mầu
hồng nhẹ, vảy khô xám phủ trên. Trung tâm tổn thương teo, lõm, da nhăn mầu
nâu. Sau một thời gian tổn thương đặc trưng bởi các đường ly tâm song song như
xương sườn của chúa.
Tổn thương thông thường ở thân mình, cổ, còn thấy ở cánh tay và cẳng
chân, ở chỗ này thường dai dẳng và có ở mặt tổn thương đặc biệt ở trẻ em. Tổn th-
ương ở cánh tay và cẳng chân khoảng 6- 12 %. Tổn thương ở lòng bàn tay cũng có
thể có, có hình ảnh đỏ da bong vẩy có mụn nước nhỏ. Tổn thương ở bán niêm mạc
là hiếm nhưng cũng phải chú ý. Tổn thương đỏ da bong vẩy hoặc điểm xuất huyết
hoặc phỏng nước cũng có gặp. Có cả tổn thương ở âm đạo.
Triệu chứng chung khác có thể quan sát thấy nhưng nhẹ, sẩn ngứa nhẹ,
hoặc là có thể do điều trị không đúng. Sốt rét nhẹ, mệt mỏi, hạch limphô ở nách có
thể sưng.
Tổn thương da thông thường biến mất sau 3- 6 tuần , nhưng một vài tổn
thương có thể nhanh hơn 1-2 tuần. Tổn thương ở phía dưới, có thể kéo dài hơn.
Có thể để lại tăng hay giảm sắc tố. Nhưng thông thường không để lại dấu vết gì.
Tổn thương tái phát sau vài tháng hoặc vài năm sau có thể thấy 2% các
bệnh nhân .
Tổn thương nhiều hay đơn độc có thể quan sát thấy .
Bệnh có thể ở dạng không điển hình, biến dạng khoảng 20 % các bệnh
nhân. Các tổn thương thứ phát có thể thành đám lớn, nó có thể tràn lan hay thậm
chí chỉ có vài tổn thương. Cùng lúc ấy có thể có tổn thương ở đầu ngón tay. Đặc
biệt ở trẻ em tổn thương có thể ở dạng sẩn mày đay ở giai đoạn sớm và có vảy phủ
trên , hoặc tổn thương ở trẻ em dạng mày đay điển hình với điểm xuất huyết, tổn
thương xuất huyết cấp tính cũng có ở người lớn. Sẩn nước, mụn nước và mủ cũng
gặp. Tổn thương dạng sẩn hay gặp ở Châu Phi hôn Châu Âu. Sẩn li chen hay gặp
ở rìa tổn thương .
Vẩy phấn vằn vèo và có bờ viền Vidal ( Pityriasia Circinata et marginata
of Vidal), một đôi khi thấy hình thái này ở người lớn. Tổn thương ít nhưng rải rác
rộng, thông thường nó khu trú ở một vùng của cơ thể, đặc biệt ở nách và bẹn. Nó
kéo dài vài tháng, hình thái này là hình thái tràn lan.
Chẩn đoán :
Khi tổn thương điển hình thì không khó .
Khi không điển hình, biến dạng ( ban mày đay, xuất huyết , li chen...) thì
cần phải phân biệt với :
Nhiễm độc da dị ứng thuốc bằng các xét nghiệm inVitro.
- Viêm da da dầu có thể lầm với các vẩy phấn . Nếu viêm da da dầu tổn
thương thường chậm và ở vùng da đầu, ngực, lưng , má. Có vẩy mỡ và vẩy
vụn, sẩn chân lông. Tổn thương sẽ kéo dài nếu không điều trị.
- Giang mai 2: Phải có các tổn thương nơi khác, tiến triển chậm có nổi
hạch, có tổn thương chung và tổn thương niêm mạc, tổn thương là đào ban dát sẩn,
xét nghiệm huyết thanh giang mai (+).
- Hình thái ban maỳ đay ở trẻ em.
- Vảy nến thể chấm giọt đôi khi cũng dễ nhầm với vẩy phấn hồng dạng
liken (lichénoi'd )Cả hai tổn thương đều là sẩn. Nhưng vẩy nến có vẩy trắng xà cừ
còn vẩy phấn hồng là đa dạng. Một đôi khi có vẩy máu và ở người trẻ.
Các phần da nhiễm sắc khô ở mặt , ở viêm da liên cầu, ở trẻ em dễ nhầm
với bệnh này.
6. Điều trị :
Điều trị triệu chứng là chính. Điều trị mạnh tại chỗ là không cần thiết.
Tránh kích thích bởi tắm nóng, xà phòng và quần áo len. Để chống da khô, tránh
kích thích có thể dùng crem coócticôid. Tại chỗ tổn thương có thể dùng tia cực tím
liều dưới đỏ da.
Bôi dung dịch Rivanol 1 %o có thể cho kết quả tốt. Có tác giả còn cho
uống cả Rivanol.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vay_phan_hong_gibert_586.pdf