Vai trò của nhà nước trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế

Trong mỗi thành tựu, mỗi bước đi lên của đất nước, đều có vai trũ to lớn của Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt nhân dân thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết Thực chất của quỏ trỡnh đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của quan hệ hàng hóa - tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy lý luận mới về quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xó hội. Theo đó, vai trũ của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. . Đó là quá trỡnh chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ("bàn tay hữu hỡnh" - "bàn tay vụ hỡnh"), giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu, thỡ hiện nay đang giữ vai trũ chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu; nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thỡ hiện nay là thiết kế "luật chơi", hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh; và nếu trước đây thực hiện kế hoạch hóa trực tiếp thỡ hiện nay chuyển sang điều tiết bằng hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.

Vai trũ lónh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa và quỏ độ đi lên chủ nghĩa xó hội ở nước ta trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hai nhõn tố này thể hiện tớnh tự giỏc, khắc phục tính tự phát của kinh tế thị trường và mặt trái của toàn cầu hóa kinh tế đang do chủ nghĩa tư bản chi phối, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.

 

doc18 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vai trò của nhà nước trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Më §ÇU: Trong mỗi thành tựu, mỗi bước đi lên của đất nước, đều có vai trò to lớn của Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt nhân dân thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế vừa qua ở Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của quan hệ hàng hóa - tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy lý luận mới về quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Theo đó, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. . Đó là quá trình chuyển Nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ("bàn tay hữu hình" - "bàn tay vô hình"), giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu, thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu; nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thì hiện nay là thiết kế "luật chơi", hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh; và nếu trước đây thực hiện kế hoạch hóa trực tiếp thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hai nhân tố này thể hiện tính tự giác, khắc phục tính tự phát của kinh tế thị trường và mặt trái của toàn cầu hóa kinh tế đang do chủ nghĩa tư bản chi phối, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế. Chúng ta đang sống trong một thế giới mới, thế giới toàn cầu hóa với những thay đổi lớn, đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng đến bất cứ quốc gia nào và cá nhân nào. Không thể bạn trẻ chúng ta phải bắt tay nhập cuộc trong tiến trình của nhân loại nói chung và nước Việt Nam nói riêng. Là một sinh viên trường đại học Kinh tế quốc dân em luôn muôn bản thân phải nâng cao sự hiểu biết xứng đáng là thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai của đất nước. Bước sang thế kỷ 21 nước ta đang trên đà phát triển đó là nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của nhà nước, để hiểu rõ hơn về vai trò của nhà nước vì thế em đã chọn đề tài này. II . VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NẬP NỀN KINH TẾ QUỐC TẾ 1. Cơ sở lý luận. Nhà nước bằng những hình thức nhất định của mình có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của giai cấp thống trị về mặt chính trị và tư tưởng đối với giai cấp bị trị . Kiến trúc thượng tầng cũ . xây dựng và bảo vệ , củng cố phát triển cơ sở hạ tầng mới . Vì khi một điều lệ ra đời nó tác động tới các mối quan hệ sản xuất và ngược lại khi quan hệ sản xuất phát triển cao thì Nhà nước cần ban hành các ( xác lệnh ) chính sách các điều lệ phù hợp với các quan hệ sản xuất. Từ cơ sỏ lý luận đó nó sẽ được chứng minh trong các quá trình lịch sử . Khẳng định rằng sự ra đời của vai trò của Nhà nước đối với nền KT là tất yếu . Bất cứ một Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng KT . Các Mác coi quyền lực của Nhà nước như : “vai trò bà đỡ cho XH cũ thai nghén XH mới” . Ở các thời kỳ khác nhau , ở các chế độ XH khác nhau do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng KT của Nhà nước có hiệu quả khác nhau. 2. Sự hình thành và phát triển KT của các Nhà nước được biểu hiện qua các thời kỳ lịch sử. Lịch sử đã chứng minh vai trò của Nhà nước được hình thành ngay từ buổi ban đầu . Khi một Nhà nước mới được hình thành thì ngay lập tức vai trò kinh tế của Nhà nước cũng được khẳng định luôn. + Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ Nhà nước chủ nô là một kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử . Nó dùng các quyền lực của mình để chiếm đoạt ruộng đất và của cải vật chất do nô lệ làm ra và coi giai cấp này như một công cụ. Trong từng thời kỳ Nhà nước chỉ can thiệp vào việc phân phối các của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lương nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp và luôn đề ra những chính sách ruộng đất htích hợp cho từng giai đoạn từng thời kỳ . Nhưng nói chung các hoạt đọng này diễn ra một cách tự phát. + Thực tế trong Nhà nước phong kiến đã can thiệp và đã thu được những thành công và có những thất bại. Trong đó sự can thiệp sớm nhất xuất hiện ở các triều đại Lý thế kỷ X trước công nguyên. Nhà Lý hình thành các thái ấp và chịu sự kiểm soát của triều đình. Tuy nhiên mặc dù Nhà nước phong kiến đã có ý kiểm soát hoạt động của các thái ấp nhưng vẫn không thể kiểm soát nổi tình trạng bóc lột, hà khắc với nhân dân. Chính vì vậy trong nhiều thập kỷ của Nhà nước phong kiến VN tiếp tục ban hành các chính sách nhằm kiểm soát, duy trì và củng cố quyền lực của Nhà nước, TƯ. Năm 1937 Hồ Quý Ly ban hành chính sách hạn điều và hạn nô Năm 1429 sau cuộc chiến tranh dành độc lập thắng lợi Nhà Lê đã ban hành chế độ quan điều Ở các nước khác trong giai đoạn này cũng tương tự, song các nước phương Đông sớm nhận thức về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hơn các nước phương Tây. Ở Trung Quốc từ học thuyết “ bình dân kinh tế chủ nghĩa” Mạnh Tử cho rằng chính sách kinh tế của Nhà Nuớc phải làm cho dân giàu và chỉ có dân giàu thì nước mới mạnh. Song dù có tiến bộ và cải cách hơn chế độ chủ nô, với sự phát triển của chế độ xã hội nên chế độ phong kiến (Nhà nước phong kiến) vẫn phải sụp đổ để thay vào đó một Nhà nước tiến bộ hơn. Đó là Nhà nước TBCN. Ở Nhà nước TBCN nền kinh tế mới ra đời các quan hệ sản xuất cũng đuợc đổi mới. Nhằm nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển. Nhà nước tư bản nhanh chóng có những chính sách giúp đỡ các nhà kinh doanh, tạo ra sự tích luỹ tư bản. Trong giai đoạn đầu của CNTB Nhà nước đã ban hành và xây dựng các bộ luật nhằm tạo ra sự tích luỹ cao nhất và giúp các doanh nghiẹp trong nước khỏi sự chèn ép của các tập đoàn doanh nghiệp nước ngoài. Nhưng khi kinh tế TBCN phát triển Nhà nước chỉ đóng vai trò là người giám sát và tạo ra các tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Qua các thời kỳ lịch sử cho thấy rõ hơn là lực lượng sản xuất trong chế độ đó phát triển ở một mức độ nào đó, nó sẽ kéo theo mối quan hệ sản xuất đó cũng dần thay đổi để phù hợp và khi quan hệ sản xuất ngày càng được nâng cao và mở rộng thì nó đòi hỏi phải có một thể chế mới nhằm đáp ứng nhu cầu cho các mối quan hệ sản xuất phát triển. Cho nên dòng lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rất rõ. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi mức sản xuất phát triển tức họ đã đòi các quyền về sự phân phối sản phẩm cần phải có quan hệ tổ chức về quản lý và quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Song thể chế lùc bấy giờ chỉ coi tầng lớp lao động (nô lệ) chỉ là những công cụ sản xuất. Và quan hệ sản xuất cũng như các chính sách của Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Cho nên như một tất yếu khách quan các quan hệ sản xuất đã đấu tranh và thay đổi một kiểu Nhà nước mới. Sang thời kỳ phong kiến, thời kỳ này cũng tương tự như vậy, tuy đã được cải cách nhiều xong còn lạc hậu với các quan hệ sản xuất ngày càng phat triển và cũng như quá trình chuyển biến từ nền kinh tế chiếm hữu nô lệ sang nền kinh tế tư bản chủ nghĩa . Với khoa học công nghệ phát triển , nó đã cải tiến được nhiều quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất… Nhưng quan hệ phân phối sản phẩm vẫn chưa được giải quyết một cách đúng đắn. Trong thời kỳ kinh tế TBCN phát triển, Nhà nước tư bản đã khôn khéo che đậy mối quan hệ này bằng cách tạo ra các chính sách như trợ cấp…nhằm che giấu bản chất của mối quan hệ sản xuất. Nhà nước CNTB đã đặt ra chế độ thuế khoá- một chế dộ đóng góp có tính cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị, thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp , điều hoà sự xung đột và “giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, lợi ích phần lớn tập trung vào tay một số ít người (giai câp thống trị) trong xã hội. Nền kinh tế đó sớm muộn cũng bị thay đổi, nhằm giải quyết triệt để vấn đề cơ sở hạ tầng . Và để giải quyết vấn đề về mối quan hệ Nhà nước và kinh tế đó một Nhà nước mới ra đời - Nhà nước XHCN. + Nhà nước XHCN : Bên cạnh những mặt tiêu cực của Nhà nước TBCN, Nhà nước XHCN đã biết kế thừa những mặt tích cực cũng như những thành tựu của Nhà nước TBCN nhằm giải quyết tốt hơn vai trò của Nhà nước. 3. Sự cần thiết tất yếu phải có vai trò của Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay của đất nước, khi mà đất nước đang xoá bỏ dần nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung để xây dựng nền kinh tế mới - nền kinh tế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước. Thì vai trò của Nhà nước ngày càng lớn lao hơn. Chúng ta đang xây dựng nền KTTT để đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế thế giới , mà chúng ta đã biết nền KTTT là một nền kinh tế CNTB mà bản chất của phương thức sản xuất này là giá trị thặng dư , vì mục đích lợi nhuận tối đa con người có thể làm mọi thứ. “ Mục đích của sản xuất TBCN làm giàu, là nhân giá trị lên , là làm tăng giái trị , do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra gái trị thặng dư ” (theo Các Mác) . Sản xuất ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) là một động lực thúc đẩy con ngườn sản xuất bằng mọi cách nhằm tạo ra lợi nhuận lớn nhất. Mà chúng ta đang xây dựng đất nước tiến lên CNXH, nhưng muốn vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường để tạo ra cơ sở vật chất tiền đề vững chắc về vật chất, cho nên cần phải có vai trò của Nhà nước nhằm định hướng tốt tránh sự lệch lạc trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Mặt khác, trong quá trình xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường chúng ta sẽ gặp nhiều hạn chế trong cơ chế này. Khi nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ có thể gây ra nhiều nhũng mất ổn định và thường xuyên phá vỡ thế cân bàng trong nền sản xuất XH. Bên cạnh đó có thể sinh ra các vấn đề nan giải khác như: cạnh tranh càng ngày càng gay găt, phân phối sản phẩm, sư phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc hơn. Do vậy nhằm đi đúng con đường đã chọn Nhà nước và nhân dân ta cần phải có chính sách hợp lý nhằm hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế mới. Vì vậy cần phải có vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình xây hựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. 4. Vai trò của nhà nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô và thiết lập cơ chế thị trường sao cho các thành phần kinh tế khác nhau vận động theo cùng một hướng tạo thành một hợp lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những thành tựu của nó, đang và sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để bắt kịp thời đại, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý. Điều đó có nghĩa là phải tạo ra được một bước ngoặt chiến lược về ý thức, nhận thức đối với tri thức khoa học, công nghệ (theo nghĩa rộng), làm cho khoa học, công nghệ ngày càng phục vụ đắc lực hơn cho sự nghiệp cách mạng. Trước hết là sử dụng công nghệ thông tin vào công tác lãnh đạo và quản lý, qua đó Đảng và Nhà nước có thể lựa chọn được những phương án tối ưu cho công tác lãnh đạo và quản lý, xử lý kịp thời và đúng đắn những tình huống phức tạp trong kinh tế và chính trị.hủ nhận con đường đúng đắn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Như vậy, vai trò của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết đó là việc xoá bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho thị trường phát triển. Đây có thể coi là vai trò quan trọng nhất của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, không phải chủ thể kinh tế nào cũng luôn có khả năng nắm bắt và hành động theo các quy luật kinh tế thị trường. Trước hết, đó là khó khăn trong việc tiếp cận và khả năng phân tích thông tin; sau đó là các điều kiện để thực hiện các quyết định kinh doanh khi đã nắm chắc được cơ hội. Đây là lý do khách quan cần có vai trò của Nhà nước trong việc định hướng, hỗ trợ, điều tiết các chủ thể kinh tế trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế bền vững. Như vậy, vai trò thứ hai của Nhà nước là định hướng, hỗ trợ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Định hướng bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động của các chủ thể kinh tế thông qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư... Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ thuật, xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu... Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông quá đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, cung cấp điện, nước sạch... là một điều kiện quan trọng hàng đầu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là những hoạt động đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, nhưng lại rất khó thu lợi nhuận trực tiếp, do vậy mặc dù đã có nhiều giải pháp thu hút vốn đầu tư tư nhân, nhưng cho đến nay và cả trong tương lai, Nhà nước vẫn là người đầu tư chính vào lĩnh vực này. Đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vai trò thứ ba của Nhà nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là kiểm soát, hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Có thể thấy rõ, vai trò này của Nhà nước qua một số nhiệm vụ cụ thể sau: Thứ nhất, đó là bảo vệ môi trường sinh thái. Các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế đều tìm cách tối đa hoá lợi nhuận của mình. Tuy nhiên, trong chi phí của họ không bao gồm những thiệt hại về môi trường mà các hoạt động sản xuất của họ gây ra cho xã hội. Do vậy, để bảo vệ môi trường, đảm bảo hiệu quả xét trên góc độ toàn xã hội đạt mức cao nhất thì Nhà nước phải có những biện pháp phù hợp để bảo vệ môi trường sinh thái. Những biện pháp này có thể là đặt ra các tiêu chuẩn về môi trường, đặt ra các mức thuế áp dụng cho các hoạt động sản xuất gây ô nhiễm... Thứ hai, là chống độc quyền. Độc quyền là một khuyết tật của kinh tế thị trường, làm cho thị trường hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng độc quyền, bao gồm cả độc quyền tự nhiên cũng như độc quyền tồn tại do chính sách hạn chế cạnh tranh trong và ngoài nước. Thứ ba, là thực hiện các chính sách xã hội, phát triển kinh tế ở những vùng khó khăn. Cơ chế thị trường bao giờ cũng khuyến khích các chủ thể kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ở những khu vực thành thị có điều kiện thuận lợi. Điều này tất yếu sẽ dẫn tới sự phát triển không đồng đều giữa các vùng trong nước, nới rộng khoảng cách phát triển giữa thành thị với nông thôn đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Sự bất bình đẳng này về lâu dài sẽ ảnh hưởng không tốt tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, ngoài công cụ chính sách để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào những địa bàn khó khăn, thì Nhà nước phải bằng thực lực kinh tế của mình tiến hành đầu tư, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân ở những vùng này. Như vậy, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Nhà nước phải chủ động phát triển, sử dụng cơ chế thị trường như một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đồng thời luôn có giải pháp hạn chế, sửa chữa các khuyết tật thị trường, cũng như định hướng, kiểm soát nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. Những điều này khẳng định vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định của quản lý nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta. Và sẵn sàng để hội nhập thành công hơn. Đối với hoạt động đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó thì vai trò của nhà nước lại quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm quốc gia và thực tiễn những năm qua đã khẳng định rằng nếu thiếu đi sự quản lý của Nhà nước, kinh tế đối ngoại sẽ không thể mở rộng và mang lại hiệu quả, thậm chí còn mang lại hậu quả khó lường không chỉ về kinh tế mà còn nguy hiểm hơn là hậu quả chính trị, bởi vì mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị luôn là mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau nhất là trong điều kiện diễn biến hoà bình đang là một nguy cơ. Mặc dù đã có những cố gắng nhất định về vai trò của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại nên kết quả thu được không nhỏ, song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan trong đo vấn đề quản lý nhà nước nên kết quả đó còn nhiều khiêm tốn và càng khiêm tốn hơn nếu so sánh với các nước trong khu vực. Vì vậy việc tăng cường vai trò quản lý nhà nước trở thành một vấn đề cấp bách. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của nhà nước mới có thể hạn chế những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung. Thông qua sự tăng cường vai trò quản lý nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh phát huy hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua thiệt về lợi ích…. Quan điểm giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xã hội hóa giáo dục là một đòi hỏi mang tính tất yếu trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nói vai trò chủ đạo của Nhà nước là nói đến vái trò của Nhà nước trong việc định hướng cho sự phát triển của giáo dục; việc xây dựng độ ngũ những người thầy giáo- kỹ sư tâm hồn mà trách nhiệm và sứ mệnh của họ đối với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ không đổi thay ngay cả trong xã hội thông tin hiện đại; và trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, khoa học và công nghệ đã trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong đó tri thức và thông tin có vai trò rất lớn.Sau gần 17 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từng bước được hình thành. Qua đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt có giá trị cao. Vai trò của quản lý nhà nước về chất lượng trước hết phải là vai trò định hướng và bảo đảm cho hoạt động chất lượng có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế phải dựa vào đẩy mạnh xuất khẩu, mà muốn đẩy mạnh xuất khẩu phải dựa vào tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ. Như vậy, định hướng cơ bản về công tác chất lượng hiện nay là các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Vai trò lớn thứ hai trong quản lý nhà nước về chất lượng là việc đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc. Thông qua việc quy định và kiểm soát về vệ sinh, an toàn, môi trường, Nhà nước đảm bảo hàng hóa sản phẩm, nguyên vật liệu…nhập khẩu vào Việt Nam phải bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người tiêu dùng, an toàn cho môi trường tự nhiên và xã hội. III.GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC. 1.Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội là ước vọng của nhân dân Việt Nam,là mối quan tâm sâu sắc của Đảng va Nhà Nước ta. Để tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội thì Nhà nước phải có nhiều yếu tố và giải pháp đồng bộ, phải sử dụng và phát huy tốt các nguồn lực cho sự phát triển, phải cải tạo các các điều kiện cơ bản như: sự ổn định về chính trị-xã hội, sự đầu tư đúng hướng cho khoa học… Để làm được những điều này Nhà nước sử dụng pháp luật như là một công cụ đắc lực, đồng thời cũng sử dụng pháp luật để đảm bảo vai trò của mình.. Pháp luật là sự biểu hiện của văn minh và văn hóa xã hội, nó thể chế hóa những quan điểm, đường lối kinh tế thành hệ thống các quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để xác lập, củng cố và định hướng phát triển. Thực tế cho thấy rằng trong bất cứ chế độ kinh tế nào cũng cần có sự điều tiết của nhà nước bằng pháp luât để giải quyết những vấn đềmà tự thân cơ chế kinh tế không thể tự giải quyết được. Nhà nước ta dùng pháp luật nhằm đảm bảo 3 mục tiêu cơ bản là: Bảo đảm hiệu quả kinh tế Giảm bớt bất công xã hội Tạo ra sự ổn định kinh tế chính trị Trong thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều Bộ luật, luật và các văn bản hướng dẫn thi hành để đáp ứng, nâng cao hiệu quả vai trò quản lý của Nhà nước trong điều kiện đổi mới của nền kinh tế. Tuy nhiên đến nay hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam còn thiếu, chưa đồng bộ thường xuyên phải sửa đổi, điều chỉnh và bổ sung. Vì vậy, trước mắt Nhà nước phải tiếp tục khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật để tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Đồng thời bổ sung, sửa đổi pháp luật hiện hành để chúng phù hợp với thực tiễn vận động nhanh chóng của nền kinh tế thị trường. Ví dụ luật cạnh tranh, luật chứng khoán và thị trường chứng khoán…. Cần cải tiến công tác làm luật, tăng cường vai trò của Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội chuyên trách trong tiến trình xây dựng, đưa ra và phê chuẩn các dự án luật. Đảm bảo chúng sát với thực tế đòi hỏi của nền kinh tế trong quá trình hội nhập của nền kinh tế quốc tế. 2. Đảm bảo phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phải tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần như Đại hội làn thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thừa nhận. Coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo Pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị với bất kỳ thành phần kinh tế nào (theo hiến pháp 1992). Đây là vấn đề cốt lõi đòi hói sự quan tâm đúng mức của Nhà nước, tránh sai lầm trước đây không thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân, mà đi theo mô hình kinh tế của Liên Xô trước đây và các nước XHCN ở Đông Âu đã khiến chúng ta chịu nhiều hậu quả. Phải xây dựng và phát triển kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế do doanh nghiệp Nhà nước là công cụ quan trọng để Nhà nước mở rộng hợp tác quốc tế, bình ổn gía cả thị trường, định hướng cho hoạt động của các thành phần kinh tế khác…việc sắp xếp và đổi mới nhầm phát triển và nâng cao mạnh mẽ hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng, của cả nền kinh tế nói chung là mối quan tâm hàng đầu để nâng cao vai trò của Nhà nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay không cho phép chúng ta chần trừ. Chính điều này đã và sẽ khiến cho chúng ta chịu nhiều áp lực rong quá trình đàm phán, làm cho cạnh tranh ngày càng phức tạp. Do vậy, chúng ta cần phải kiên quyết cho phá sản, giải thể những doanh nghiệp Nhà nước không có chiến lược hiệu quả, cho tư nhân hóa những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nhưng không có chiến lược, chỉ giữ lại những doanh nghiệp quản lý một số ngành, cơ sở trọng điểm,then chốt quyết định đến tốc độ tăng trưởng đến toàn bộ nền kinh tế, đến sự biến đổi căn bản cơ cấu kinh tế và việc áp dụng kỹ thuật công nghệ mũi nhọn có tác dụng là “bà đỡ” và hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Các nghành kinh tế công cộng đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi chậm và tỉ suất lợi nhuận thấp mà các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư. Giữ lại một số ngành có lợi nhuận siêu ngạch cực lớn để là chỗ dựa, thực lực để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ, chính sách của mình. 3. Hình thành đồng bộ cơ chế quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố cáu thành thị trường bao gồm: Thị trường hàng hóa dịch vụ Thị trường lao động Thị trường vốn,thị trường tiền tệ ……. Nhìn chung, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mới được hình thành ở trình độ thấp, khả năng cạnh tranh còn chưa cao, nhiều thị trường sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy Nhà nước cần phải đổi mới mạnh mẽ, đẩy mạnh sự phát triển của các thị trường, đặc biệt phát triển các thị trường mới như: thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học. Cần chú ý thị trường ở các vùng còn nhiều khó khăn như nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo. Chủ đông hội nhập với thị trường quốc tế. Nhà nước phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác phát triển. Nhà nước thông qua các chiến lược,quy hoạch, kế hoạch, chín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50119.DOC