Ngày nay khoa học công nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, cụng nghệ và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học cụng nghệ mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia.
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với nhiều nguồn khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học công nghệ, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học cụng nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước bằng cách dựa vào khoa học, cụng nghệ "
Nhằm giải thích rõ hơn vai trò của khoa học kỹ thuật đối với lực lượng sản xuất, từ đó áp dụng vào trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học cụng nghệ phù hợp với vài trò "Là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ", chúng em xin chọn đề tài “Vai trò của khoa học công nghệ đối với lực lượng sản xuất”.
24 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Vai trò của khoa học kỹ thuật đối với lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang 2
CHƯƠNG 1:KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI 3
1.1 LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT- VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 3
1.1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin 3
1.1.2 Vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội 4
1.2 Khoa học công nghệ - Vai trò của khoa học công nghệ 6
1.2.1 Khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội loài người. 6
1.2.2 Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất 7
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9
2.1 Những thành tựu đạt được 9
2.2 Những yếu điểm còn tồn tại 12
2.3 Nguyên nhân chủ yếu 14
2.4 Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tại nước ta hiện nay 15
2.5 Công nghiệp hóa – hiện đại hóa tác động vào lực lượng sản xuất trong nền kinh tế tri thức. 17
KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay khoa học công nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, cụng nghệ và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ sự phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát triển khoa học cụng nghệ mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia.
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với nhiều nguồn khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng của khoa học công nghệ, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng về khoa học cụng nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước bằng cách dựa vào khoa học, cụng nghệ "
Nhằm giải thích rõ hơn vai trò của khoa học kỹ thuật đối với lực lượng sản xuất, từ đó áp dụng vào trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển khoa học cụng nghệ phù hợp với vài trò "Là lực lượng sản xuất hàng đầu trong quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ", chúng em xin chọn đề tài “Vai trò của khoa học công nghệ đối với lực lượng sản xuất”.
Vì đây là một đề tài lớn, với tiềm lực và khả năng còn hạn chế, chúng em chỉ xin phân tích vai trò của khoa học công nghệ đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay. Bằng sự tham khảo từ nhiều nguồn, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của thầy, chúng em đã hoàn thành bài tiểu luận này. Tuy còn sơ xài, nhưng hy vọng nó cũng làm rõ được phần nào vai trò của khoa học công nghệ đối với lực lượng sản xuất, đưa ra đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, nhằm đưa đất nước phát triển, nhanh chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế của đất nước.
CHƯƠNG 1:
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT- VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin
Trong xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của loài người, con người không ngừng tác động vào tự nhiên, sản xuất ra nhiều sản phẩm phục vụ cho nhu cầu vật chất, tinh thần của mình. Trong quá trình lao động tạo ra của cải vật chất của mình, con người không thể tách rời khỏi các mối quan hệ với tự nhiên, với con người. Như vậy, quá trình sản xuất vật chất của con người dựa trên mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản xuất "biểu hiện cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong qúa trình sản xuất ra của cải vật chất". Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động . Sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Và quan hệ sản xuất là "quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất". Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế -xã hội nhất định, nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng, đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất cũ, lạc hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người và từ đó dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học", Mác viết: " Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những mối quan hệ xã hội của mình". Khi lực lượng sản xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất cải biến các đối tượng trong quá trình sàn xuất, tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó có tính lịch sử. Cũng do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân tố giữ vai trò quyết định bởi vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế phụ thuộc vào trình độ sử dụng và sang tạo của người lao động. Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên. Ngày nay, tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ có được nhờ những quá trình nghiên cứu khoa học đã ngày càng trở thành những nhân tố quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và từ đó dẫn đến sự hình thành những nhân tố cơ bản nhất của xu hướng phát triển kinh tế tri thức.
Vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội
C.Mác viết:"Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào".
Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế -xã hội nhất định, nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng, đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất cũ, lạc hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài người, làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người và từ đó dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Khi lực lượng sản xuất trước hết là tư liệu sản xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, lực lượng sản xuất không chỉ là yếu tố khách quan, năng động nhất của phương thức sản xuất mà còn là yếu tố cấu thành nền tảng vật chất của toàn thể nhân loại.
Theo quan niệm của Mác, mỗi hình thái kinh tế-xã hội được hình thành từ nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ như: mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…Các yếu tố, các mối quan hệ này luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực nội tại của sự phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Xuất phát từ quan niệm đó, CacMác đã cho rằng ngay trong cùng một hình thái kinh tế-xã hội thì không phải bất cứ lúc nào nó cũng được thể hiện dưới một hình thức giống nhau. Chính vì lẽ đó, Mác đòi hỏi phải vận dụng phương pháp phân tích lịch sử cụ thể khi sử dụng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội vào vệc xem xét, phân tích một xã hội cụ thể, phải làm rõ được vai trò, vị trí và sự tác động của những quan hệ xã hội đó trong đời sống xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể rút ra những kết luận có tính quy luật của một xã hội cụ thể khi áp dụng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội vào việc nghiên cứu xã hội đó. Và xét cho đến cùng, thì sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực xã hội mới là yếu tố quyết định tiến trình phát lịch sử của nhân loại hàng nghìn năm qua. Ph.Anghen nói: '' Theo quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến cùng là sản xuất và tái sản xuất đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ khẳng định gì hơn thế…". Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và sự tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng hoàn thiện dần của các hình thái kinh tế xã hội, là sự thay đổi hình thái kinh thái kinh tế lạc hậu lỗi thời bằng hình thái kinh tế xã hội tiến bộ, hiện đại hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Nó là nền tảng, là cơ sở vật chất-kĩ thuật, là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, con người tạo ra của cải vật chất bằng săn bắt, hái lượm, nên lượng của cải tạo ra ít và không ổn định. Khi các công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện, con người biết chuyển từ săn bắt, hái lượm sang chăn nuôi, trồng trọt, năng suất lao động tăng lên, của cải tạo ra dư thừa, dẫn đến sự thay đổi từ hình thái công xã nguyên thủy thành chiếm hữu nô lệ. Trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, khi lực lượng sản xuất ( người nô lệ) mâu thuẫn với quan hệ sản xuất (chủ nô) dẫn tới một hình thức xã hội khác là thời kỳ phong kiến. Xã hội phong kiến kết thúc khi mâu thuẫn giữa người nông dân và địa chủ phong kiến, kết hợp với sự ra đời của máy móc kỹ thuật dẫn đến hình thành một hình thái kinh tế xã hội mới là tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử của xã hội loài người, khi lực lượng sản xuất phát triển đến một mức giới hạn nhất định, sẽ dẫn đến thay đổi các quan hệ sản xuất tương ứng và hình thành một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn, năng suất lao động ngày càng cao.
Khoa học công nghệ - Vai trò của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội loài người.
Từ khi xuất hiện, con người không ngừng nỗ lực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của mình. Với sự lao động sáng tạo, con người đang dần dần khám phá, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng nhiều dụng cụ, máy móc, quy trình để giúp đỡ giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Trải qua từ thời kỳ công xã nguyên thủy cho đến hình thái phong kiến, khoa học công nghệ chưa thật sự phát triển, chưa có nhiều công cụ lao động được tạo ra. Chỉ đến thế kỷ 18, khoa học công nghệ mới thật sự phát triển, đánh dấu bằng cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất. Với sự phát minh ra động cơ hơi nước, con người đã có thể tạo ra nhiều máy móc thay thế sức lực của súc vật và con người, từ đó năng suất lao động được nâng cao. Qua đến cuộc cách mạng khoa học lần thứ 2, sự xuất hiện của động cơ đốt trong thay thế cho động cơ hơi nước đã tạo được sự đột phá trong các lĩnh vực sản xuất.
Tới đầu thế kỷ 20 mối quan hệ mật thiết giữa khoa học- công nghệ đã tạo nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại của xã hội loài người, đánh dấu "quá trình khoa học công nghệ biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp là điều kiện cần để đưa lực lượng sản xuất lên một bước phát triển mới". Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự thay đổi căn bản trong bản thân các lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng xã hội của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các lực lượng sản xuất cũng bị thay đổi hoàn toàn. Ở nét khái quát nhất có thể định nghĩa cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của xã hội. Có thể nói rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã đưa văn minh nhân loại sang một giai đoạn phát triển mới về chất. Đó là kết quả của quá trình tích luỹ lâu dài các kiến thức khoa học của việc đổi mới kỹ thuật sản xuất, và việc tăng quy mô sử dụng kỹ thuật mới.Cho đến ngày nay, khoa học và công nghệ đã không ngừng phát triển, tạo ra nhiều bước đột phá trong mọi lĩnh vực như:
- Trong lĩnh vực năng lượng, con người từ sử dụng năng lượng nước, gió, than, dầu, mặt trời, năng lượng nguyên tử và hiện nay chính là năng lượng nhiệt hạch. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người đang tìm kiếm một nguồn năng lượng sạch, an toàn và vô tận.
- Trong lĩnh vực sản xuất, từ hợp tác lao động giản đơn, trải qua giai đoạn công trường thủ công rồi tiến lên phương thức sản xuất đại cơ khí với các quy trình sản xuất và kỹ thuật được cơ giới hoá đến việc áp dụng các hệ thống máy móc tự động vào trong sản xuất, giúp cho năng suất lao động ngày càng tăng cao.
- Trong sản xuất vật liệu, chuyển từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên, đến việc sử dụng kim loại, rồi các vật liệu tổng hợp, vật liệu siêu dẫn, và gần đây là các loại vật liệu thông minh, vật liệu tàng hình…
Như vậy, với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nhiều lĩnh vực, con người ngày càng phát triển văn minh, tiến bộ, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của con người.
Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
Theo học thuyết Mac-Lenin, lực lượng sản xuất bao gồm con người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó, nhân tố “người lao động” giữ vai trò quyết định. Còn tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…
Về mặt “người lao động”, từ thời kỳ công xã nguyên thủy, cho đến phong kiến, sự phát triển của khoa học công nghệ còn non yếu, sức lực của con người vẫn còn chiếm chủ yếu trong các hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội. Nhưng từ thế kỷ 18 đến nay, trước sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ, nhiều máy móc ra đời, thay thế dần sức lao động của con người trong việc sản xuất. Như vậy, vai trò của công cụ lao động đang dần thay thế cho yếu tố con người.
Về mặt “đối tượng lao động”, ta có các đối tượng lao động thuộc hoàn toàn về tự nhiên, đó là các loại tài nguyên thiên nhiên sẵn có và các đối tượng lao động có mang yếu tố con người, tức là các đối tượng lao động đã qua chế biến của con người. Trong hai loại đối tượng lao động này, tài nguyên thiên nhiên thì không vô hạn, nên cần có sự phát triển của khoa học kỹ thuật để có thể sử dụng một cách hiệu quả nhất.
Như vậy có thể thấy, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất ngày càng được cải thiện và nâng cao, từ đó giúp tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực khoa học công nghệ. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và khoa học công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng cách phát triển.
CHƯƠNG 2:
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt, những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý, đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi.
Trước xu thế toàn cầu hóa này, nước ta đang từng bước cải thiện nền khoa học công nghệ của mình, tuy còn nhiều khó khăn và thử thách.
2.1 Những thành tựu đạt được
- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động khoa học và công nghệ của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất - kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đã đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước.
- Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng định giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
- Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi cả nước.
2.2 Những yếu điểm còn tồn tại:
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa học và công nghệ nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ đầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai tr c7911a khoa h7885c cng ngh7879 2737889i v7899i l7921c lamp.DOC