Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội .

Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.

Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất công nghiệp hoạt động theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,.

Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đanh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia.

Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch sử đầy thử thách gay go, ác liệt để tồn tại và phát triển. Công nghiệp nước ta đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất định như sau:

Công nghiệp với tư cách là một loại lao động sản xuất nằm trong nông nghiệp do người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn để sản xuất ra các sản phẩm thủ công nghiệp có tính chất tự cấp tự túc phụ thuộc nền kinh tế nông nghiêp. Như C. Mác đã chỉ ra đó là sự phụ thuộc có tính chất nguyên thủy của công nghiệp đối với nông nghiệp .

 

doc24 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục lục Đặt vấn đề 1 Nội dung 2 I. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 2 1. Vị trí và vai trò của công nghiệp 2 2. Cơ cấu ngành công nghiệp 3 II. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội 4 III. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua 7 1. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua 7 2. Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp Việt Nam 9 IV. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước 11 1. Phương hướng phát huy vai trò công nghiệp trong quá trình CNH - HĐH đất nước 11 2. Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 14 3. Các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước 19 V. Dự báo sự phát triển công nghiệp Việt Nam trong những năm tới 20 Kết luận 22 Tài liệu tham khảo 23 đặt vấn đề Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. “Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội”. Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan của lịch sử nước nhà. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa so với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực về trình độ, khó khăn về vấn đề vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận hành theo nền kinh tế thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Trong điều kiện như vậy cần nghiên cứu vấn đề công nghiệp của nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa là rất cần thiết. Liệu Việt Nam có thể đi lên thành một nước phát triển nhờ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở phát triển nghành công nghiệp được hay không đó là vấn đề mà chúng ta đang cần nghiên cứu. Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền sản xuất là điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước đang phát triển muốn vươn lên hàng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao. Tuy nhiên đây không phải là một quá trình đơn giản, nó không đơn thuần là sự chuyển tiếp kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp trên nông nghiệp trong phạm vi toàn quốc, mà là một quá trình phức tạp, lâu dài. Đây là một quá trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều vấn đề quan trọng của nền kinh tế vĩ mô mà sự thành công hay không của quá trình này có tính quyết định đến mục tiêu CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. ở nước ta, từ Đại hội Đảng lần thứ I (9/1960) đã đề ra chủ trương công nghiệp hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội và qua một thời gian dài trên ba mươi năm qua chủ trương đó của Đảng vẫn được quán triệt và thực hiện triệt để. Hướng chủ yếu để thực hiện CNH-HĐH ở Việt Nam là phát triển công nghiệp - là ngành có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nó cũng có vai trò to lớn trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Không thể nào CNH-HĐH nếu không có sự phát triển công nghiệp vì CNH-HĐH không thể được thực hiện khi mà nền kinh tế lạc hậu kém phát triển. Đồng thời quá trình CNH-HĐH lại tạo điều kiện cho công nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. Vì vậy việc nghiên cứu sự phát triển công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH là rất quan trọng và cần thiết. Nội dung I/ Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 1. Ví trí và vai trò của công nghiệp. Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội . Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất công nghiệp hoạt động theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,... Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đanh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch sử đầy thử thách gay go, ác liệt để tồn tại và phát triển. Công nghiệp nước ta đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất định như sau: Công nghiệp với tư cách là một loại lao động sản xuất nằm trong nông nghiệp do người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn để sản xuất ra các sản phẩm thủ công nghiệp có tính chất tự cấp tự túc phụ thuộc nền kinh tế nông nghiêp. Như C. Mác đã chỉ ra đó là sự phụ thuộc có tính chất nguyên thủy của công nghiệp đối với nông nghiệp . Công nghiệp tách khỏi nông nghiệp dưới hình thức nghề thủ công nghiệp độc lập. Nền sản xuất đó là nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Quá trình phát triển công nghiệp từ nền sản xuất hàng hóa nhỏ lên nền đại công nghiệp cơ khí qua 3 giai đoạn đó là: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Quá trình phát triển của công nghiệp vừa thể hiện sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội vừa thể hiện trình độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa trong sản xuất công nghiệp cũng như ảnh hưởng của sự phát triển sản xuất công nghiệp đến trình độ phát triển sản xuất hàng hóa nói chung của nền kinh tế quốc dân . Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy: “Công nghiệp không chỉ tái sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản xuất khác nhau trên bước đường phát triển của mình. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, công nghiệp là một phạm trù kinh tế với nhiều hình thức phát triển ở mức độ khác nhau như: công nghiệp gia đình, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, công nghiệp hiện đại, công nghiệp tư bản chủ nghĩa, công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nhưng đặc điểm chủ yếu của công nghiệp được biểu hiện trong việc áp dụng rộng rãi các hình thức phân công có tính chất kỹ thuật, trong sản xuất, sản phẩm có sự tồn tại của hệ thống máy móc, tính liên tục của quá trình sản xuất. Sản xuất công nghiệp có tính chuyên môn hóa. Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân . Thực chất vai trò chủ đạo của công nghiệp là sự ảnh hưởng quyết định của công nghiệp đến việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các ngành kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Vì công nghiệp có lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến hơn các ngành kinh tế quốc dân khác. Trong sản xuất công nghiệp con người sử dụng các công cụ lao động chủ yếu là máy móc thiết bị còn như nông nghiệp chỉ sử dụng công cụ lao động thô sơ. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được bắt nguồn từ chỗ nó tập hợp và không ngừng phát triển giai cấp công nhân đội quân tiên phong trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, đổi mới xã hội. Do đó mà công nghiệp có quan hệ sản xuất luôn được củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nhân trong ngành công nghiệp có trình độ cao hơn trong sản xuất nông nghiệp. Đối tượng lao động của công nghiệp rất phong phú và đa dạng (cả tự nhiên và nhân tạo ). Mặt khác, sản xuất công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công lao động và hợp tác lao động chặt chẽ. Hình thức sở hữu là hình thức toàn dân còn phân phối theo hình thức tiền lương: đây là hình thức phân phối tối ưu nhất và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ cao nên hình thành các nhà máy, các xí nghiệp công nghiệp. Trong cách mạng quan hệ sản xuất: công nghiệp quyết định sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa. Công nghiệp là ngành duy nhất trang bị công cụ lao động cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân khác.Vì vậy, tốc độ và sự phát triển của công nghiệp quyết định đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Đồng thời quá trình đó cũng tác động tới quá trình phân công lao động. Công nghiệp thông qua việc trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế (nhất là nông nghiệp). Như vậy, sức mạnh của công nghiêp không chỉ có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong bản thân công nghiệp mà còn có tác dụng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Trong cách mạng khoa học kỹ thuật: "Công nghiệp giữ vai trò vô cùng to lớn .Vai trò đó thể hiện chủ yếu ở việc đem các thành quả của công nghệ áp dụng vào các ngành kinh tế quốc dân bằng cách trang bị kỹ thuật cho nó làm cho các ngành đó có những bước tiến mới về cơ sở vật chất kỹ thuật đẩy mạnh quá trình cách mạng khoa học kỹ thuật của mình Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Công nghiệp là tiền đề vật chất để thay đổi tận gốc các tư tưởng và văn hóa cũ, xây dựng tư tưởng và văn hoá mới, nânbg cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân góp phần bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đồng đều giữa các vùng: vùng miền núi - đồng bằng, thành thị - nông thôn, lao động trí óc - lao động chân tay,... tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Ngoài ra trong các lĩnh vực khác: công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của lĩnh vực đó. 2. Cơ cấu ngành công nghiệp. Xuất phát từ vai trò chủ đạo của công nghiệp ta xem xét đến cơ cấu kinh tế của công nghiệp. Cơ cấu ngành công nghiệp là số lượng ngành công nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện trình độ phát triển công nghiệp của đất nước, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tự chủ của nến kinh tế cũng như trình độ tăng năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất. Cơ cấu ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát huy vị trí chủ đạo của công nghiệp. Do đó, kế họach cơ cấu ngành công nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong kế hoạch hóa công nghiệp . Vì vậy để kế hoạch hóa kinh tế ngành công nghiệp cần phải có sự nhận thức đầy đủ về các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp đó là: - Nhân tố ảnh hưởng quyết định là tiến bộ KHKT. Nhân tố này làm xuất hiện các ngành sản xuất công cụ lao động mới, làm xuất hiện nhiều ngành hiện đại như: chế tạo công cụ, sản xuất phương tiện tự động hóa , sản xuất máy vô tuyến, sản xuất vật liệu cao cấp. - Trình độ và tính chất phát triển của công nghiệp thể hiện ở mối quan hệ gắn bó lâu đời giữa hai ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế. Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu cho công nghiệp và là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp. - Cơ cấu ngành công nghiệp phụ thuộc vào tình hình tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Nhân tố này tạo điều kiện tiên quyết hay hạn chế việc hình thành các ngành công nghiệp - Trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu công nghiệp phong phú và cũng thể hiện được tính riêng biệt, tính mũi nhọn của công nghiệp một nước. - Điều kiện lịch sử kinh tế xã hội sẽ để lại những đặc điểm riêng về cơ cấu công nghiệp mỗi nước, đồng thời cũng tạo ra những thay đổi cơ cấu công nghiệp trong thời kỳ. Phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất công nghiệp ở mỗi nước cũng được thể hiên rõ nét trong cơ cấu. Nhân tố này tác động gián tiếp qua nhu cầu và là nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư. - Trình độ phân công lao động quốc tế , tính đa dạng của nhu cầu, sự khác nhau về diều kiện thuận lợi trong sản xuất ở các nước đòi hỏi bất kể nền kinh tế nào cũng cần có sự trao đổi kết quả hoạt động lao động, Chính vì vậy cần phải mở rộng . - Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, mở rộng thị trường thế giới. Các nhân tố trên tạo thành một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công nghiệp. Quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta cũng là quá trình cải tiến cơ cấu công nghiệp nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng. ii/ quan đIểm của đảng ta về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và các lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách,... Con đường để đạt được nhanh nhất là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở nước ta được bắt đầu từ năm l960, từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960). Đảng đã khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp nặng”(1) Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960. và chủ trương CNH là “Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ”(2) Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960. . Chiến lược này được củng cố và bổ sung qua các thời kỳ đại hội IV (12/1976) V(1981) và các hội nghị trung ương, đại hội Đảng. Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN... chú trọng một khoảng thời gian chúng ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, điện năng, khai thác than... Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đề ra đường lối: “ xây dựng kinh tế XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp…”(3) Trang151 - Giáo trình Lịch sử Đảng. . Sau năm 1975 thống nhất đất nước do vậy đòi hỏi phải có chiến lược CNH thích hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên. Do chủ trương nôn nóng chủ quan duy ý chí và với sai lầm trong công tác chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1974-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%. Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, chưa có tích lũy nội bộ. Nóng vội trong cải tạo XHCN, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể vì vậy không huy động được các nguồn lực trong nước tham gia vào CNH đất nước. Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quồc lần thứ V (3/1982) đã xác định: “Nội dung chính của CNH XHCN trong những năm tới là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng” (4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V. . Sự thay đổi đó bước đầu đã có tác dụng đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng năm sản xuất công nghiệp tăng 0,5%; TNQD tăng từ 20,5% năm 1980 lên 30% năm 1985. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa V của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD) và cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả" (5) Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VI. và đại hội Đảng VI đã khẳng định : "Tiếp tục nắm vững hai chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa". Kể từ năm 1986, đây là thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức quan điểm và tổ chức chỉ đạo thực hiện Đại hội lần thứ VI (12/1986) đã xác định rõ quan điểm và chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo” (6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. và “Trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” (7) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. . Từ quan điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng cơ chế và bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số năm 1986: 5887,2%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai con số năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá trị nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu mỏ, than đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực tăng nhanh. Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992 tăng 5,4% so với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5% (1992). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài quốc doanh đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp quốc doanh năm 1989 chiếm 57%. Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” (8) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. . Đại hội Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995): “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. . Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản phẩm trong nước 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng 13,2%.Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền KTQD và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (7/1996) Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả" (10) Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VIII. và đạ hội VIII xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đến năm 2020 và năm 2000 là: ” Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiẹp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phong, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” (11) Trang 174 – Giáo trình Lịch sử Đảng. . Đại hội xác định: Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển- đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thữ IX (4/2001) của Đảng đã xác định: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển sản xuất, đồng thời xây dưng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN…” (12) Trang 182 – Giáo trình Lịch sử Đảng. . Để thực hiện đường lối và chiến lược kinh tế, đến năm 2010, Đại hội đề ra chủ trương, giảI pháp sau: - Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. Phát triển kinh tế nhiều thành phần (3 hình thức sở hữu cơ bản và 6 thành phần kinh tế) - Tiếp tục lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Các quan đIểm của Đảng về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội đã và đang xuyên suốt sự phát triển của công nghiệp Việt Nam. Iii/ Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua 1. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua. Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm, sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60%-70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%. Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần mức trung bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%). Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan điểm rõ ràng việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì thế sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được HĐH nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư. Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp đị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLich su Dang 45.doc
Tài liệu liên quan