Tuyên bố Giáo dục mở (2007) tại Cape Town, Nam Phi đã chỉ ra
rằng chúng ta đang trên đỉnh của cuộc cách mạng toàn cầu về dạy và
học, nơi mà các nhà giáo dục trên toàn thế giới đang phát triển nguồn
tài nguyên giáo dục rộng lớn trên Internet, mở và miễn phí truy cập cho
tất cả mọi người. Có thể nói Giáo dục mở được xây dựng trên sự hội
tụ lồng ghép và phát triển của nguồn mở, truy cập mở và khoa học mở;
và cũng là biểu tượng của tập hợp các thay đổi chính trị và kinh tế rộng
lớn hơn báo hiệu về “sản xuất xã hội” như một khía cạnh của nền kinh
tế kỹ thuật số toàn cầu.
14 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 498 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Vài suy nghĩ về cơ sở lý luận của giáo dục mở và tính mở cho giáo dục đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dục và đi giáo dục người khác. Một phần sự hấp dẫn của Tính mở đã
bắt nguồn từ sự liên kết của nó với việc tái cấu trúc giáo dục rộng hơn
xung quanh ý tưởng của “người học”. Tính học hỏi hóa (Biesta 2010)
đã có xu hướng giả định các sinh viên tự chủ, có hoạt động độc lập đòi
hỏi cơ hội giáo dục với tài liệu có thể truy cập ngay lập tức và phổ biến,
181PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
bất cứ lúc nào và giáo viên chỉ đơn giản là tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình. Giả định là “chúng ta” rất mở cửa tự nhiên và trong suốt thời
gian này, kỷ luật nhà trường đã bắt chúng ta phải đóng cửa. Tuy nhiên,
ý tưởng cởi mở này phụ thuộc quá nhiều vào logic tự định hướng và
không tham gia vào việc không chú trọng đến việc tiếp xúc với giáo
viên, các hình thức có vấn đề về cô lập sinh viên, chiếm dụng lao động
học thuật, bỏ bê xã hội và các chiều kích chính trị của một nền giáo dục
xuất hiện trong các phòng học toàn cầu hóa. Tính mở như vậy chỉ là giải
pháp cho chủ thể tự chủ tưởng tượng, và chỉ có thể tưởng tượng được
khi giáo dục được tách ra khỏi sự phức tạp của văn hóa, xã hội và sức
mạnh của chính trị. Hơn nữa, việc tái cấu trúc vai trò giáo viên và sự
không chuyên nghiệp hóa việc dạy học đã bị bỏ qua trong nỗ lực này
đối với tính mở. Phong trào giáo dục mở này đôi khi có thể có vẻ đáng
lo ngại đối với các lực lượng của chủ nghĩa tân tự do bên trong trường
đại học.
3.5. Chủ nghĩa xã hội tri thức và trường đại học: Commons và các cơ hội trí tuệ cho
Tính Mở trong thế kỷ XXI
Tính mở là giá trị trung tâm của chủ nghĩa tự do hiện đại nằm trong
các mô tả chính trị, nhận thức luận và đạo đức khác nhau. Khi sử dụng
“Tính mở để phân tích không gian học tập và giáo dục”, để thảo luận
các khía cạnh của Tính mở và ‘giáo dục mở’ Peters & Britez, (2008)
bắt đầu với một lịch sử ngắn về Tính mở trong giáo dục tập trung vào
khái niệm Đại học Mở lần đầu tiên thiết lập ở Vương quốc Anh những
năm 1960. Sự phát triển này được họ gọi là Đại học Mở 1.0. Sau đó, họ
xem xét khái niệm về tính mở dưới ánh sáng ‘công nghệ mở’ mới của
Web 2.0 nhằm thúc đẩy tính tương tác và khuyến khích sự tham gia,
hợp tác và giúp thiết lập các hình thức mới của Commons trí tuệ - một
không gian để chia sẻ kiến thức và làm việc tập thể. Commons trí tuệ
ngày càng dựa trên các mô hình nguồn mở, truy cập mở, lưu trữ mở, hệ
thống tạp chí mở và giáo dục mở, mà mô hình này được gọi là Đại học
Mở 2.0. Nếu Commons trí tuệ dựa trên logic phương tiện truyền thông
công nghiệp được đặc trưng bởi chế độ phát sóng một - nhiều thì Đại
học Mở 2.0 dựa trên chế độ tương tác phân cấp triệt để, nhiều - nhiều
182 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
và đồng đẳng. Để minh họa cho sự tiến bộ và khả năng của Đại học Mở
2.0, các tác giả tập trung vào sáng kiến truy cập mở MIT (Khóa học
nguồn mở của MIT và Harvard) để công bố các bài báo của giáo viên
qua trực tuyến. Cuối cùng, các nhà nghiên cứu mong đợi khả năng kết
hợp lợi ích của hai hình thức đầu tiên này thành cái mà họ gọi là Đại học
Mở 3.0 và xem xét khả năng của nó cho các trường đại học trong tương
lai. Bằng cách làm như vậy, các nhà nghiên cứu đề xuất một phương
tiện điều tra góc độ kinh tế chính trị của Tính mở khi nó tái cấu trúc
các trường đại học trong nền kinh tế tri thức ở thế kỷ XXI và đồng thời
đề xuất một mô hình xã hội hóa nền kinh tế tri thức cạnh tranh với các
phiên bản mới.
Lập luận cơ bản ở đây là tập trung vào cách thức mà hình thức mở
công nghệ mới, đặc biệt là phương tiện truyền thông xã hội mới nổi:
mạng xã hội, blog, wiki và nội dung, phương tiện được người dùng tạo
ra, cung cấp mô hình mở mới cho quan niệm về commons trí tuệ dựa trên
sản xuất đồng đẳng. Đây là hình thức chia sẻ kiến thức hoàn toàn phi tập
trung, tương tác thực sự và có thể đóng vai trò là nền tảng cho “văn hóa tri
thức” (Peters & Besley, 2006; Peters & Roberts, 2010). Tính mở 1.0 dựa
trên các nguyên tắc dân chủ xã hội nhấn mạnh tính toàn diện và bình đẳng
của cơ hội và là một sản phẩm của thời đại phúc lợi chủ nghĩa (welfarism)
khi mà giáo dục đại học được coi là lợi ích công cộng không đủ tiêu
chuẩn, nhưng cơ chế của Tính mở 1.0 theo phương tiện truyền thông đại
chúng công nghiệp, được thiết kế để tiếp cận một lượng lớn khán giả theo
logic một - nhiều. Ở một khía cạnh nào đó, công nghệ mâu thuẫn với các
giá trị dân chủ xã hội chỉ cho phép chuyển giao kiến thức một chiều. Tính
mở 2.0 dựa trên những gì có thể được gọi là các nguyên tắc của nền kinh
tế chính trị tự do, đặc biệt là sở hữu trí tuệ và tự do thông tin. Lần lặp lại
thứ hai về tính mở này sử dụng các kiến trúc và công nghệ P2P mới là một
phần của hệ tư tưởng của Web 2.0 và được thể hiện theo cách nhấn mạnh
vào đạo đức tham gia (“phương tiện truyền thông có sự tham gia”), cộng
tác và chia sẻ tệp đặc trưng cho sự phát triển phương tiện truyền thông xã
hội, tương tác và hợp tác.
Như vậy, các tác giả lập luận rằng Đại học Mở 2.0 cung cấp nền
tảng cho mô hình truyền thông xã hội mới của trường đại học bao gồm
183PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
các bài viết dân chủ xã hội của Đại học Mở ban đầu và nó cung cấp
phương tiện để phục hồi và nâng cao sứ mệnh lịch sử của trường đại học
trong thế kỷ XXI. Đại học Mở 2.0 cung cấp các cơ chế để loại bỏ ý thức
hệ quản lý chủ nghĩa tân tự do và trở lại một cái nhìn xã hội hóa hoàn
toàn về chia sẻ kiến thức và kiến thức bắt nguồn từ tư duy Khai sáng về
khoa học và thực tiễn mới của nó trong sản xuất ngang hàng. Quan điểm
này dựa trên lập luận rằng kiến thức và giáo dục là các hoạt động xã hội
cơ bản và kiến thức và giá trị của kiến thức bắt nguồn cơ bản từ các mối
quan hệ xã hội (Peters & Besley, 2006). Tuy nhiên, đồng thời các nhà
nghiên cứu cũng nhận ra rằng bất kỳ cách tái lý luận nào về trường đại
học cũng phải vượt ra khỏi giới hạn của ngay cả Đại học Mở 2.0, mặc
dù logic của nó về tính mở - thường xoay quanh các tổ chức độc quyền
kiểu MIT và Harvard và tương ứng về các yếu tố độc quyền, bao gồm sở
hữu trí tuệ và đặc quyền về ‘chuyên môn’. Do đó, sự phát triển Tính mở
liên quan đến trường đại học phải chuyển từ mô hình dân chủ xã hội của
Đại học Mở 1.0 và mô hình kinh tế chính trị tự do của Đại học Mở 2.0,
sang một phiên bản mở mới dựa trên chủ nghĩa xã hội tri thức. Chỉ
thông qua sự phát triển như vậy, Đại học Mở 3.0 này mới có thể đạt
được tiềm năng của nó như là một địa điểm của sự hòa nhập thực sự và
sáng tạo kinh tế và xã hội.
4. KẾT LUẬN
Trong kỷ nguyên mới của cạnh tranh kỹ thuật số trong giáo dục đại
học, Tài nguyên giáo dục Mở (OER) chủ yếu là phục vụ cho e-Learning
và e-Teaching trong giáo dục bậc Ba. Tuy nhiên, đầu thế kỉ XXI các nhà
khoa học đã phát hiện ra một số lỗ hổng như:
- Sự thay đổi trong kiểm soát học mở, dạy mở và dạy kèm (hướng
dẫn) mở;
- Nhận thức của sinh viên (người học) trong cộng đồng học trực tuyến;
- Tư duy phê phán về dạy và giải quyết vấn đề đồng bộ,
- Kinh nghiệm của người dạy trực tuyến với tư cách là người đã
trải nghiệm học online.
Một trong các thách thức đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam là xây dựng chính sách chiến lược cho phát triển giáo dục Mở ở
184 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ
bậc giáo dục đại học. Vấn đề không phải là ứng dụng các chính sách
Giáo dục mở và tài nguyên giáo dục Mở (chủ yếu tiếng Anh) từ các
nước phương Tây tiên tiến mà rào cản lớn nhất chính là trình độ ngoại
ngữ còn rất hạn chế của người học ở Việt Nam. Một trong các ưu tiên
chiên lược là phải xây dựng tài nguyên giáo dục mở bằng tiếng Việt với
điều kiện công nghệ sẵn có ở trong nước.
Kinh nghiệm của các nước trong khối Đông Âu cũ rất đáng để
cho Việt Nam học tập. Ví dụ, Slovakia đã xây dựng chính sách phát
triển Giáo dục mở dựa trên 3 trụ cột:
1/ Cung cấp nội dung số hóa cho các trường đại học; Khả năng số
hóa nội dung giáo dục phụ thuộc vào khả năng xuất bản sách giáo khoa,
tạp chí điện tử;
2/ Trong quá trình số hóa nội dung giáo dục, chính phủ cần phải
hiện đại hóa cơ sở hạ tầng thông tin cần thiết, cụ thể là Interrnet tốc độ
cao và đường truyền băng thông rộng;
3/ Chú ý đến động cơ ưa thích học điện tử của người học nhằm thúc
đẩy gia tăng kỹ năng kỹ thuật số của giảng viên. Ưu tiên hàng đầu là chú
ý đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm mở và trình độ ICT cho cán
bộ giảng dạy và giáo sinh các trường sư phạm./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Thị Mai Hoa và Ts. Mai Văn Tỉnh “Cần có cơ sở lý luận và thực
tiễn về Giáo dục Mở”. Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung ương, số 8-2019,
trang 63-65.
2. Applied E-Learning and E-Teaching in Higher Education; by Roisin
Donnelly and Fiona McSweeney, Dublin Institute of Technology,
Ireland; InformatIon scIence reference;Hershey • New York;
3. Markus Deimann và Peter Sloep-. “How does Open Education work”-
Openness and Education - Advances in Digital Education and Lifelong
Learning, Volume 1, 1 23; Copyright r 2013 by Emerald Group Publishing
Limited;
4. Australian Journal of Educational Technology, 2019, 35(3).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_suy_nghi_ve_co_so_ly_luan_cua_giao_duc_mo_va_tinh_mo_cho.pdf