Ung thư vú –Phần 1

Trong ung thư vú, các tế bào vú phát triển bất thường và thường

không rõ nguyên nhân. Những tế bào này phân chia nhanh hơn các tế bào

khỏe mạnh và có thể di căn sang vú hoặc các phần khác của cơ thể. Loại ung

thư vú hay gặp nhất bắt đầutừ ống dẫn sữa, những ống này dẫn sữa sau khi

sinh con, nhưng ung thư c ũng có thể xuất hiện ở các túi sữa nhỏ hoặc ở mô

vú khác.

Ung thư vú là bệnh mà nhiều phụ nữ sợ nhất, mặc dù họ sẽ chết do

bệnh tim mạch nhiều hơn là chết do tất cả các dạng ung thư vúphối hợp.

Tuy nhiên, về nguyên nhân tử vong do ung thư ở phụ nữ Mỹ, ung thư vú chỉ

đứng thứ 2 sau ung thư phổi. Hàng năm, có hơn 200.000 phụ nữ Mỹ được

chẩn đoán ung thư vú. Và hàng năm có gần 40.000 phụ nữ Mỹ chết do ung

thư vú. Mặc dù hiếm gặp, ung thư vú cũng có thể xảy ra ở nam giới.

Hiện tại có nhiều lý do để lạc quan về ung thư vú hơn trước đây. Có

một khoảng cách rất lớn về chẩn đoán và điều trị trong 25 năm qua. Năm

1975, chẩn đoán ung thư vú thường có nghĩa là cắt vú toàn hộ và lấy bỏ toàn

bộ vú cùng với hạch bạch huyết ở nách, da và cơ dưới vú. Ngày nay, cắt

toàn bộ vú rất ít khi được thực hiện. Thay vào đó, có nhiều lựa chọn điều trị

và tốt hơn, và nhiều phụ nữ là ứng cử viên cho phẫu thuật vú tiết kiệm, như

cắt hạch bạch huyết.

Điều quan trọng là phát hiện bệnh sớm, thay đổi lối sống và liệu pháp

điều trị như tamoxifen, có thể giảm nguy cơ ung thư vú. Thêm vào đó, phát

triển mạng lưới đại lý và phương pháp điều trị để giúp đỡ những người đã

được chẩn đoán bệnh, đang phải đối mặt với những quyết định điều trị hoặc

sống chung với ung thư vú.

pdf49 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1300 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Ung thư vú –Phần 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ung thư vú – Phần 1 Trong ung thư vú, các tế bào vú phát triển bất thường và thường không rõ nguyên nhân. Những tế bào này phân chia nhanh hơn các tế bào khỏe mạnh và có thể di căn sang vú hoặc các phần khác của cơ thể. Loại ung thư vú hay gặp nhất bắt đầu từ ống dẫn sữa, những ống này dẫn sữa sau khi sinh con, nhưng ung thư cũng có thể xuất hiện ở các túi sữa nhỏ hoặc ở mô vú khác. Ung thư vú là bệnh mà nhiều phụ nữ sợ nhất, mặc dù họ sẽ chết do bệnh tim mạch nhiều hơn là chết do tất cả các dạng ung thư vú phối hợp. Tuy nhiên, về nguyên nhân tử vong do ung thư ở phụ nữ Mỹ, ung thư vú chỉ đứng thứ 2 sau ung thư phổi. Hàng năm, có hơn 200.000 phụ nữ Mỹ được chẩn đoán ung thư vú. Và hàng năm có gần 40.000 phụ nữ Mỹ chết do ung thư vú. Mặc dù hiếm gặp, ung thư vú cũng có thể xảy ra ở nam giới. Hiện tại có nhiều lý do để lạc quan về ung thư vú hơn trước đây. Có một khoảng cách rất lớn về chẩn đoán và điều trị trong 25 năm qua. Năm 1975, chẩn đoán ung thư vú thường có nghĩa là cắt vú toàn hộ và lấy bỏ toàn bộ vú cùng với hạch bạch huyết ở nách, da và cơ dưới vú. Ngày nay, cắt toàn bộ vú rất ít khi được thực hiện. Thay vào đó, có nhiều lựa chọn điều trị và tốt hơn, và nhiều phụ nữ là ứng cử viên cho phẫu thuật vú tiết kiệm, như cắt hạch bạch huyết. Điều quan trọng là phát hiện bệnh sớm, thay đổi lối sống và liệu pháp điều trị như tamoxifen, có thể giảm nguy cơ ung thư vú. Thêm vào đó, phát triển mạng lưới đại lý và phương pháp điều trị để giúp đỡ những người đã được chẩn đoán bệnh, đang phải đối mặt với những quyết định điều trị hoặc sống chung với ung thư vú. Dấu hiệu và triệu chứng Hiểu biết về các dấu hiệu và triệu chứng ung thư vú có thể bảo vệ cuộc sống của bạn. Khi bệnh được phát hiện sớm, bạn có nhiều sự lựa chọn điều trị hơn và có khả năng hồi phục lâu dài tốt hơn. Thực tế, khi ung thư vú được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống thêm 5 năm là 95%. Phần lớn các khối u vú không phải là ung thư. Dấu hiệu hay gặp nhất của ung thư vú ở cả nam và nữ là có khối u hoặc dày vú. Ở nhiều trường hợp, khối u không đau. Các dấu hiệu khác của ung thư vú bao gồm:  Tiết dịch trong hoặc có máu tự nhiên ở đầu vú  Co rút hoặc lõm đầu vú  Thay đổi kích thước hoặc các đường nét của vú  Bẹt hoặc có nếp gấp trên da vùng vú  Đỏ hoặc rỗ da ở vùng vú, giống da có màu vàng Có nhiều yếu tố trừ ung thư vú có thể làm cho vú bị thay đổi kích thước hoặc cảm giác. Ngoài những thay đổi tự nhiên xuất hiện trong thời kỳ mang thai và trong chu kỳ kinh nguyệt, các bệnh vú không phải ung thư (lành tính) hay gặp khác bao gồm:  Những thay đổi u xơ. Bệnh này có thể làm cho vú bạn có cảm giác đặc hoặc có hột. Những thay đổi u xơ rất phổ biến, xảy ra ở ít nhất một nửa số phụ nữ. Ở phần lớn các trường hợp, những thay đổi này không có hại. Và không nghĩ bạn có khả năng bị ung thư vú. Nếu vú bạn rất lổn nhổn, hãy tự kiểm tra vú nhiều hơn. Trở nên quen thuộc với việc tự kiểm tra vú là điều bình thường sẽ giúp phát hiện các khối u mới hoặc những thay đổi sớm hơn.  U nang. Có nhiều túi đầy dịch thường xuất hiện ở vú phụ nữ từ 35-50 tuổi. U nang có thể thay đổi từ rất nhỏ tới kích thước khoảng bằng quả trứng. Chúng có thể tăng kích thước hoặc trở nên mềm hơn chỉ trước chu kỳ kinh, và có thể biến mất hoàn toàn sau chu kỳ kinh. U nang ít gặp hơn ở phụ nữ sau mãn kinh.  U xơ tuyến. Có nhiều khối u rắn, không phải là ung thư thường xuất hiện ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ. U xơ tuyến là khối u sợi, nhẵn, đàn hồi có hình dạng rất rõ. Nó sẽ di chuyển dưới da bạn khi sờ vào và thường không đau.  Nhiễm trùng. Nhiễm trùng vú (viêm vú) thường gặp ở phụ nữ đang nuôi con bú hoặc những người mới cai sữa, dù vậy bạn cũng có thể bị viêm vú mà không liên quan tới việc nuôi con bằng sữa. Vú của bạn thường đỏ, nóng, mềm hoặc có u, và hạch bạch huyết dưới cánh tay có thể sưng. Bạn cũng thấy hơi mệt và sốt nhẹ.  Chấn thương. Đôi khi tác động mạnh vào vú hoặc vết thâm tím cũng có thể nổi cục. Nhưng điều này không có nghĩa là bạn dễ bị ung thư vú hơn.  Lắng đọng calci (tiểu vôi hóa). Lắng đọng chút ít calci có thể xuất hiện ở bất cứ vị trí nào của vú và thường thấy những khối u vú nhỏ trên X-quang. Phần lớn phụ nữ có một hoặc nhiều vùng tiểu vôi hóa với các kích thước khác nhau. Chúng có thể là do sự bài tiết của tế bào, mảnh vụn tế bào, viêm nhiễm, chấn thương hoặc chiếu xạ trước đó. Chúng không phải là hậu quả của việc bổ sung calci. Phần lớn lắng đọng calci không có hại, nhưng một số ít có thể là tiền ung thư hoặc ung thư. Nếu thấy bất cứ điều gì nghi ngờ, bác sĩ có thể khuyên làm thêm xét nghiệm. Nếu thấy nổi cục hoặc những thay đổi khác ở vú và chưa qua thời kỳ mãn kinh, bạn có thể đợi qua một chu kỳ kinh trước khi đến khám bác sĩ. Nếu sự thay đổi này không mất đi sau 1 tháng, hãy đến bác sĩ khám ngay. Nguyên nhân Mỗi vú của bạn chứa 15-20 thùy của mô tuyến, sắp xếp như những cánh hoa cúc. Các thùy được phân thành các tiểu thùy nhỏ hơn sản sinh sữa trong thời kỳ mang thai và cho con bú. Các ống nhỏ dẫn sữa tới bể chứa nằm phía dưới núm vú. Mạng lưới này là một lớp mô liên kết sâu được gọi là lớp đệm. Khoảng trống giữa các thùy và ống chứa đầy mỡ, tạo nên khoảng 80- 85% vú bạn trong lứa tuổi sinh đẻ. Vú bạn cũng chứa các mạch chuyên chở bạch huyết là dịch không màu mang các sản phẩm thải và tế bào của hệ miễn dịch tới hạch bạch huyết chủ yếu ở dưới cánh tay (hạch nách) nhưng cũng trên xương đòn và trong ngực. Các hạch này là sự lựa chọn của các tế bào miễn dịch lọc vi khuẩn có hại và giữ vai trò chính trong việc chống viêm. Ung thư ảnh hưởng tới tế bào, là các đơn vị cơ bản của cuộc sống. Bình thường, tế bào phát triển và phân chia theo trình tự. Nhưng đôi khi tế bào phát triển vượt qua sự kiểm soát, tế bào tiếp tục phân chia ngay cả khi không cần tế bào mới. Những tế bào thừa này có thể hình thành một khối mô được gọi là khối u. Khối u có thể không phải là ung thư (lành tính) hoặc ung thư (ác tính). Tế bào từ khối u ác tính có thể xâm lấn và làm tổn thương mô và cơ quan lân cận. Chúng cũng có thể đi theo dòng máu hoặc hệ bạch huyết tới các phần khác của cơ thể. Ở phần lớn các trường hợp, vẫn còn chưa rõ điều gì khiến tế bào bất thường phát triển trong mô vú. Biết rằng 5-10% số trường hợp ung thư vú là do di truyền. Thiếu 1 trong 2 gen, gen ung thư vú 1 (BRCA1) hoặc gen ung thư vú 2 (BRCA2), làm cho bạn có nguy cơ cao bị bệnh này. Thực tế, phụ nữ có đột biến những gen này có nhiều khả năng bị ung thư vú hơn và có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng. Cả nam và nữ đều có thể thừa hưởng gen này từ cha và mẹ. Mặc dù việc phát hiện những gen này là quan trọng, nhưng đây chỉ là bước đầu tiên. Ung thư vú là một bệnh phức tạp, cuối cùng có thể có nhiều nguyên nhân. Yếu tố nguy cơ Hội Ung thư Mỹ ước tính 75% số trường hợp ung thư vú xuất hiện ở phụ nữ mà không biết yếu tố nguy cơ. Vào thời điểm này, có 1 hoặc thậm chí nhiều yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị bệnh. Các yếu tố sau có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú:  Giới tính. Giới nữ là yếu tố nguy cơ lớn nhất của bạn. Mặc dù nam giới có thể bị ung thư vú, nhưng phụ nữ hay gặp hơn gấp 100 lần.  Tuổi. Khả năng ung thư vú tăng theo tuổi. Hiếm khi bệnh tác động tới phụ nữ dưới 25 tuổi, trong khi gần 80% trường hợp ung thư vú xuất hiện ở phụ nữ trên 50 tuổi. Ở tuổi 40, bạn có 1/252 khả năng bị ung thư vú. Ở tuổi 85, khả năng của bạn là 1/8.  Tiền sử bản thân bị ung thư vú. Nếu bạn bị ung thư ở một bên vú, bạn có nguy cơ cao bị ung thư ở vú bên kia.  Tiền sử gia đình. Phụ nữ có mẹ hoặc chị gái ung thư vú có nguy cơ cao bị ung thư vú. Nói chung, nhiều người thân ruột thịt của bạn bị ung thư vú ở tuổi tiền mãn kinh vào thời điểm chẩn đoán bệnh, nguy cơ của bạn sẽ cao hơn. Nếu bạn có 1 người ruột thịt bị ung thư vú, nguy cơ của bạn tăng gấp đôi. Nếu bạn có hơn 2 người ruột thịt bị ung thư vú, nguy cơ của bạn cao hơn nhiều.  Yếu tố di truyền. 5-10% số trường hợp ung thư vú là do di truyền. Thiếu 1 trong các gen, đặc biệt là BRCA1 hay BRCA2, làm cho bạn có nguy cơ cao bị bệnh. Thông thường những gen này giúp phòng ngừa ung thư do protein làm cho tế bào phát triển bất thường. Nhưng nếu có đột biến, những gen này không có tác dụng bảo vệ bạn khỏi ung thư. Phụ nữ thuộc dòng họ Ashkenazi (người Do thái ở Đông và Trung Âu) đặc biệt có nguy cơ.  Thừa cân. Mối liên quan giữa thừa cân và ung thư vú rất phức tạp. Nói chung, cân nặng quan trọng hơn sức khỏe với lứa tuổi của bạn và đỉnh điểm làm tăng nguy cơ nếu bạn tăng cân khi trưởng thành và nhất là sau khi mãn kinh. Nguy cơ thậm chí cao hơn nếu bạn có nhiều mỡ hơn ở phần dưới của cơ thể. Mặc dù phụ nữ thường có nhiều mỡ ở đùi và mông hơn, họ thường tăng vòng bụng vào lứa tuổi 30, có thể làm tăng nguy cơ.  Tiếp xúc với estrogen. Tiếp xúc với estrogen trong thời gian dài, nguy cơ ung thư vú cao hơn. Nói chung, nếu mãn kinh muộn (sau tuổi 55) hoặc bắt đầu có kinh trước tuổi 12, bạn có nguy cơ cao bị ung thư vú. Tương tự hoàn toàn đúng với phụ nữ chưa có con, hoặc nhưng người có thai lần đầu khi họ 35 tuổi trở lên.  Chủng tộc. Phụ nữ da trắng dễ bị ung thư vú hơn phụ nữ da đen hoặc Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phụ nữ da đen dễ chết vì bệnh hơn do họ thường được chẩn đoán bệnh ở giai đoạn muộn hơn phụ nữ da trắng. Nhưng các yếu tố kinh tế xã hội học, hơn là chủng tộc, có thể giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ tử vong. Một nghiên cứu trên 5.000 phụ nữ vùng Detroit được công bố trên Tạp chí Journal of the National Cancer Institute cho thấy phụ nữ thuộc tất cả các chủng tộc có thu nhập thấp ở mức nghèo nàn dễ được chẩn đoán ung thư vú giai đoạn muộn hơn và dễ chết vì bệnh hơn gấp 3 lần so với phụ nữ có thu nhập cao. Các tác giả kết luận rằng phụ nữ có thu nhập thấp không được chăm sóc y tế thường xuyên, là dịch vụ cho phép phát hiện ung thư vú sớm hơn.  Liệu pháp thay thế hormon (HRT). Vào tháng 7/2002, một nghiên cứu được Viện Nghiên cứu Y học Quốc gia (NIH) tài trợ đã bị ngừng lại khi nhóm nghiên cứu báo cáo rằng HRT, khi được coi là liệu pháp điều trị chuẩn đối với các triệu chứng mãn kinh, thực sự có lợi cho sức khỏe của bạn nhiều hơn nguy cơ. Trong số những người có nguy cơ ung thư vú hơi cao ở phụ nữ đang dùng phối hợp HRT đặc biệt là estrogen cộng với progestin trong nghiên cứu. Hơn nữa, liệu pháp phối hợp hormon có thể làm u ác tính khó được phát hiện trên X-quang hơn, dẫn tới ung thư được chẩn đoán ở giai đoạn muộn hơn, khi mà họ khó điều trị hơn. Vì phối hợp HRT có thể gây các tác dụng phụ nghiêm trọng và các nguy cơ cho sức khỏe, hãy thảo luận với bác sĩ để đánh giá những lựa chọn và quyết định tốt nhất với bạn.  Thuốc tránh thai. Do những thông tin hiện nay về HRT, nhiều phụ nữ trẻ đã quan tâm tới mối liên quan giữa thuốc tránh thai và ung thư vú. Đáng tiếc là chưa có câu trả lời rõ ràng. Một nghiên cứu lớn ở phụ nữ 35-64 tuổi được công bố vào tháng 6/2002 trên Tạp chí New England Journal of Medicine kết luận rằng hiện nay hoặc trước đây đã dùng thuốc tránh thai đường uống không làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nhưng Hội Ung thư Mỹ cho rằng phụ nữ hiện đang dùng viên thuốc tránh thai có thể có nguy cơ tăng nhẹ, trong khi phụ nữ đã ngừng uống thuốc tránh thai 10 năm trước đây có thể không có nguy cơ như vậy. Muốn biết thông tin mới nhất về thuốc tránh thai và ung thư vú, hãy hỏi ý kiến bác sĩ.  Hút thuốc lá. Nghiên cứu của Mayo Clinic được công bố vào tháng 4/2001 cho thấy hút thuốc lá làm tăng rõ rệt nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ có tiền sử gia đình ung thư vú và buồng trứng rõ rệt.  Tiếp xúc với tác nhân gây ung thư nào đó. Hydrocarbon thơm nhiều vòng (PAH) là hóa chất có chủ yếu trong khói thuốc lá và thịt nạc nướng. Nhiều nghiên cứu cho thấy tiếp xúc với những hóa chất này có thể làm tăng rõ rệt nguy cơ ung thư vú. Tiếp xúc với các thuốc trừ sâu nào đó cũng có thể làm tăng nguy cơ, nhưng cần nghiên cứu nhiều hơn để chứng minh mối liên quan rõ rệt này.  Dùng quá nhiều rượu. Phụ nữ dùng nhiều hơn 1 cốc rượu/ngày sẽ tăng 20% nguy cơ ung thư vú so với phụ nữ không uống rượu. Viện Nghiên cứu Ung thư Quốc gia (Mỹ) khuyên hạn chế dùng rượu ít hơn 1 cốc/ngày.  Ngủ ít. Có thể tăng nguy cơ ung thư vú nếu làm việc ca 3 hoặc tới đêm. Nguy cơ này cao nhất nếu bạn không ngủ từ 1-2 giờ sáng, khi nồng độ melatonin là hormon điều hòa giấc ngủ cao nhất. Phụ nữ thiếu ngủ trong thời gian này ít nhất 3 đêm/tuần sẽ tăng 40% nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ làm việc ban đêm sẽ tăng 60% nguy cơ. Các nhà nghiên cứu cho rằng ức chế melatonin bằng cách tiếp xúc với ánh sáng có thể làm cho buồng trứng tăng giải phóng estrogen. Khi nào cần khám bệnh  Mặc dù phần lớn những thay đổi ở vú không phải là ung thư, điều quan trọng là phải đánh giá nhanh. Nếu vẫn tồn tại thay đổi này, bạn có thể được phát hiện và điều trị càng sớm càng tốt. Hãy đến khám bác sĩ nếu phát hiện nổi cục hoặc bất cứ dấu hiệu dự báo khác của ung thư vú. Và nếu bạn đã từng điều trị ung thư vú, hãy thông báo ngay các dấu hiệu và triệu chứng mới. Các dấu hiệu và triệu chứng này bao gồm nổi cục mới ở vú hoặc nhức hay đau (nhất là ở xương) không khỏi sau 3 tuần. Ngoài ra, hãy nói với bác sĩ về việc triển khai liệu pháp phù hợp với bạn. Ung thư vú – Phần 2 Sàng lọc và chẩn đoán Sàng lọc xem xét bằng chứng của bệnh trước khi xuất hiện triệu chứng là rất quan trọng để phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm, có thể điều trị được. Tùy theo tuổi và yếu tố nguy cơ, việc sàng lọc có thể bao gồm tự khám vú, y tá hoặc bác sĩ khám (khám vú lâm sàng), chụp X-quang vú hoặc các xét nghiệm khác. Tự khám vú Trong nhiều năm, phụ nữ được khuyên khám vú hằng tháng từ khi bắt đầu 20 tuổi. Hy vọng là bằng cách trở thành chuyên gia tự khám vú và quen thuộc với những biểu hiện và cảm giác bình thường của vú, phụ nữ có thể phát hiện các dấu hiệu sớm của ung thư. Nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy hướng dẫn phụ nữ thực hiện tự khám vú có thể không hoàn thành được mục đích này. Ví dụ, một nghiên cứu lâm sàng lớn, ngẫu hóa tại Thượng Hải đã kết luận tự khám vú thực sự không làm giảm số ca tử vong do ung thư vú. Thêm vào đó, nghiên cứu cho thấy phụ nữ tự khám vú thường xuyên có thể dễ phải sinh thiết không cần thiết hơn sau khi thấy nổi cục ở vú. Đây là một trong những nguyên nhân đầu tiên khiến tháng 5/2003 Hội Ung thư Mỹ đã thay đổi khuyến nghị về việc tự khám vú, thủ thuật này được coi là một sự lựa chọn, hơn là một thủ tục, đối với phần lớn phụ nữ. Những hướng dẫn mới nhấn mạnh nhận thức sức khỏe vú thay cho hàng loạt các thủ tục tự khám hằng tháng nghiêm ngặt. Mặc dù những hướng dẫn này không nói rằng bạn không nên khám, tầm quan trọng của việc tự khám thay cho nhu cầu thông thường để trở nên quen thuộc hơn với vú của bạn. Nếu bạn muốn tiếp tục tự khám vú, hãy nói với bác sĩ để xem xét kỹ thuật. Chụp X-quang vú Chụp X-quang vú, dùng hàng loạt tia X để đem lại hình ảnh mô vú, gần đây nó là kỹ thuật hình ảnh tốt nhất trong việc phát hiện khối u trước khi bạn và bác sĩ có thể có cảm giác về chúng. Với lý do đó, Hội Ung thư Mỹ từ lâu đã khuyên chụp X-quang vú sàng lọc cho tất cả phụ nữ trên 40 tuổi. Song chụp X-quang vú vẫn chưa hoàn hảo. Khoảng 10-15% số ca ung thư vú, đôi khi ngay cả những khối u bạn có cảm giác không có biểu hiện trên X-quang (kết quả âm tính giả). Tỷ lệ này cao hơn, khoảng 25% ở phụ nữ tuổi 40. Lý do là phụ nữ ở lứa tuổi này và trẻ hơn thường có vú chắc hơn, làm khó phân biệt bất thường từ mô bình thường. Vào thời điểm khác, chụp X-quang vú có thể phát hiện bệnh khi không có bệnh (kết quả dương tính giả). Điều này có thể dẫn tới sinh thiết, lo lắng và lo âu, cũng như làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe không cần thiết. Dù vậy, đồng ý rằng nếu chụp X-quang vú cứu được tính mạng, thì tất cả những phụ nữ thích hợp sẽ được sàng lọc. Điều này đã bị thách thức trong những năm gần đây. Đặc biệt, phân tích năm 2001 của một vài nghiên cứu lớn, dài ngày cho thấy tăng thêm những câu hỏi về lợi ích của việc chụp X-quang vú sàng lọc ung thư vú. Báo cáo kết luận rằng một số nghiên cứu trước đây rõ ràng không thấy chụp X- quang vú làm cho số ca tử vong do ung thư vú giảm đi. Điều này gây những nhầm lẫn về chụp X-quang vú ở cả phụ nữ và bác sĩ. Nhưng một nghiên cứu được công bố vào tháng 4/2003, trong đó các nhà nghiên cứu đã theo dõi 200.000 phụ nữ trong 20 năm, hy vọng kết thúc nhầm lẫn này. Nghiên cứu đó cho thấy chụp X-quang vú sàng lọc thực sự đã làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở phụ nữ 40-69 tuổi là khoảng 28%. Hơn nữa, tác giả cho rằng chụp X-quang vú sàng lọc cùng với điều trị cải thiện có thể giảm một nửa số ca tử vong do ung thư vú. Vào tháng 5/2003, Hội Ung thư Mỹ đã công bố những hướng dẫn được cập nhật về sàng lọc ung thư vú, xác nhận một lần nữa khuyến nghị cho rằng phụ nữ từ 40 tuổi trở lên phải được chụp X-quang vú hằng năm. Hướng dẫn sàng lọc của Hội Ung thư Mỹ bao gồm: Nếu bạn ở độ tuổi 20-30, khám vú lâm sàng 3 năm/lần và 1 lần/năm nếu bạn từ 40 tuổi trở lên. Biết vú của bạn bình thường có cảm giác như thế nào và báo bất kỳ thay đổi nào cho bác sĩ. Bắt đầu từ lứa tuổi 20, tự khám vú là một lựa chọn. Nếu có nguy cơ cao ung thư vú do tiền sử gia đình, cấu trúc gen hoặc đã từng bị ung thư vú, hãy nói cho bác sĩ. Bạn có thể có lợi từ việc khám thường xuyên hơn, chụp X-quang vú sớm hơn hoặc làm thêm các xét nghiệm. Khi chụp X-quang vú, vú bị ép giữa các tấm chất dẻo khi kỹ thuật viên X-quang chụp. Toàn bộ thủ thuật này kéo dài ít nhất 30 phút. Có thể chụp X-quang vú hơi khó chịu một chút. Nếu quá khó chịu, hãy báo cho kỹ thuật viên. Nếu thấy vú mềm hơn, lịch trình chụp X-quang vú vào thời điểm sau chu kỳ kinh. Tránh dùng cà phê trong 2 ngày trước khi khám cũng giúp giảm độ mềm của vú. Tại một số trung tâm chụp X-quang vú hiệu quả, miếng lót mềm, dùng một lần, xốp có thể được đặt trên bề mặt các miếng ép của máy chụp X-quang vú, làm cho xét nghiệm dễ chịu và nhẹ nhàng hơn. Miếng lót không làm cản trở chất lượng hình ảnh của chụp X-quang vú. Nếu có thể, làm lịch trình chụp X-quang vú gần với khoảng thời gian khám lâm sàng hàng năm của bạn. Bằng cách này, các bác sĩ X-quang có thể xem xét một cách cụ thể bất cứ thay đổi nào mà bác sĩ có thể phát hiện được. Quan trọng nhất, không thiếu bảo hiểm y tế giúp bạn chụp X-quang vú thường xuyên. Nhiều phòng khám sức khỏe và các phòng khám Cha mẹ theo kế hoạch có xét nghiệm sàng lọc giá rẻ hoặc miễn phí. Các xét nghiệm sàng lọc khác Phát hiện với trợ giúp của máy tính (CAD). Trong chụp X-quang vú thông thường, phim chụp X-quang được đọc bởi bác sĩ X-quang, là người có kỹ năng và giữ một vai trò to lớn trong việc xác định chính xác kết quả xét nghiệm. Trong CAD, máy tính quét phim chụp X-quang vú sau khi bác sĩ X- quang đã đọc. CAD phát hiện nhiều vùng nghi ngờ hơn trên chụp X-quang vú, nhưng nhiều vùng có thể được xác nhận chậm hơn bình thường. Ngoài ra, chụp X-quang vú cùng với CAD có thể làm tăng gần 20% tỷ lệ phát hiện ung thư.  Chụp X-quang vú kỹ thuật số. Trong thủ thuật này, quy trình điện tử được dùng để thu thập và hiển thị các hình ảnh X-quang trên màn hình vi tính. Kỹ thuật này cho phép bác sĩ X-quang thay đổi độ tương phản và mầu tối, giúp dễ phát hiện những khác biệt khó thấy của mô. Thêm vào đó, hình ảnh có thể chuyển qua thư điện tử, vì vậy, phụ nữ sống ở những vùng hẻo lánh có thể được các chuyên gia ở bất cứ đâu đọc phim chụp X- quang vú. Vì chưa biết liệu chụp X-quang vú kỹ thuật số có chính xác và hiệu quả hơn chụp X-quang vú thông thường, thủ thuật này sẽ được nghiên cứu thêm.  Chụp cộng hưởng từ (MRI). Kỹ thuật này dùng nam châm nối với một máy tính để lấy các bức ảnh phía trong vú. Mặc dù không dùng trong sàng lọc thông thường, MRI có thể phát hiện các khối u quá nhỏ được phát hiện qua khám thực thể hoặc khó nhìn thấy trên chụp X-quang vú thông thường. Kỹ thuật này được dùng ở một số trung tâm để sàng lọc những phụ nữ có nguy cơ cao ung thư vú như một xét nghiệm bổ sung cho chụp X- quang vú. MRI không được khuyến nghị trong sàng lọc thông thường vì nó có tỷ lệ kết quả dương tính giả cao, có thể gây lo âu hoặc làm sinh thiết không cần thiết.  Rửa ống dẫn sữa. Trong thủ thuật này, bác sĩ luồn một ống nhỏ, mềm (catheter) vào trong lớp trong của ống dẫn sữa là vị trí bắt nguồn của phần lớn khối ung thư và rút một mẫu tế bào. Sau đó các tế bào này được kiểm tra về những biến đổi tiền ung thư mà sau này có thể gây bệnh. Những biến đổi này xuất hiện nhiều trước khi có thể phát hiện được khối u trên chụp X-quang vú. Nhưng vì rửa ống dẫn sữa là thủ thuật mới, nhiều điều vẫn chưa được biết, bao gồm tỷ lệ kết quả âm tính giả và liệu các tế bào bất thường có nhất thiết gây ung thư hay không. Các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành để tìm câu trả lời những câu hỏi này. Trong khi chờ đợi, một số bác sĩ khuyên rửa ống dẫn sữa cho những phụ nữ có nguy cơ ung thư vú cao nếu họ là người bị bệnh hay có tiền sử gia đình bị bệnh hoặc họ có khuyết tật gen làm cho họ dễ ung thư hơn. Rửa ống dẫn sữa vẫn được coi là thử nghiệm, vì vậy, nhiều công ty bảo hiểm không bảo hiểm cho thủ thuật này. Nếu bạn quan tâm hoặc có những câu hỏi về thủ thuật, hãy nói chuyện với bác sĩ.  Siêu âm vú. Bác sĩ có thể dùng kỹ thuật này để đánh giá bất thường trên phim chụp X-quang vú hoặc được phát hiện khi khám lâm sàng. Siêu âm dùng sóng âm thanh để tạo những hình ảnh về cấu trúc sâu bên trong cơ thể. Vì không dùng tia X-quang, siêu âm là một công cụ chẩn đoán an toàn có thể giúp xác định liệu một vùng có nang hoặc mô rắn hay không. Nhưng siêu âm vú không được dùng trong sàng lọc thông thường vì nó có tỷ lệ kết quả dương tính giả cao, phát hiện bệnh ở nơi không có bệnh. Các thủ thuật chẩn đoán Nếu bạn, bác sĩ hoặc chụp X-quang vú phát hiện khối u ở vú, bạn sẽ được làm 1 hoặc nhiều thủ thuật để xác định liệu khối u có phải là ung thư hay không, bao gồm: Siêu âm Thông thường, bác sĩ sẽ làm một thủ thuật ít xâm lấn hơn, như siêu âm, trước khi quyết định sinh thiết. Siêu âm là một thủ thuật dùng sóng âm thanh để tạo ra hình ảnh vú trên màn hình vi tính. Bằng cách phân tích hình ảnh này, bác sĩ có thể biết liệu khối u là nang hay là khối rắn. Nang, là những túi dịch, thường không phải là ung thư, mặc dù bạn có thể dẫn lưu nang không đau bằng một kim tiêm. Sinh thiết Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể lấy một mẫu mô nhỏ (sinh thiết) để phân tích trong phòng thí nghiệm. Để làm việc này, bác sĩ có thể dùng 1 trong các thủ thuật sau: Sinh thiết bằng kim hút nhỏ. Kiểu sinh thiết đơn giản nhất, kỹ thuật này thường dùng cho những khối u mà bạn và bác sĩ có thể cảm thấy. Trong thủ thuật, bác sĩ dùng một kim tiêm nhỏ, rỗng để hút tế bào từ khối u. Sau đó bác sĩ gửi những tế bào này tới phòng thí nghiệm để phân tích. Thủ thuật này không gây khó chịu, mất khoảng 30 phút và giống như lấy máu. Thủ thuật khác, hút bằng kim nhỏ, chủ yếu được dùng để lấy dịch từ nang không đau, nhưng cũng có thể giúp phân biệt nang hoặc khối rắn.  Sinh thiết bằng kim lấy nhân. Trong thủ thuật này, bác sĩ X- quang hoặc bác sĩ ngoại khoa dùng một kim rỗng để lấy mẫu mô từ khối u vú. Có thể lấy 15 mẫu, mỗi mẫu lấy với kích thước bằng hạt thóc và sau đó bác sĩ X-quang phân tích chúng với các tế bào ác tính. Ưu điểm của sinh thiết bằng kim lấy nhân là nó lấy mô, hơn là chỉ lấy tế bào, để phân tích. Đôi khi bác sĩ X-quang hoặc bác sĩ ngoại khoa có thể dùng siêu âm để giúp chỉ dẫn vị trí của kim.  Sinh thiết khối rắn. Kỹ thuật này được dùng để đánh giá vùng lo ngại có thể thấy trên chụp X-quang vú nhưng không thể cảm giác hoặc thấy trên siêu âm. Trong thủ thuật, bác sĩ X-quang sinh thiết bằng kim lấy nhân, dùng phim chụp X-quang vú như một chỉ dẫn. Sinh thiết khối rắn thường mất khoảng 1 giờ và được thực hiện với gây tê tại chỗ.  Định vị bằng dây. Bác sĩ có thể khuyên dùng kỹ thuật này khi thấy khối u đáng lo ngại trên phim chụp X-quang vú nhưng không thể cảm giác hoặc đánh giá được bằng sinh thiết khối rắn. Dùng phim chụp X-quang vú như một chỉ dẫn, một dây nhỏ được đặt trên vú và đầu của nó chỉ vào khối u. Định vị bằng dây thường được thực hiện ngay trước khi sinh thiết phẫu thuật, và là một cách chỉ dẫn cho bác sĩ ngoại khoa tới vùng cần cắt bỏ hoặc xét nghiệm.  Sinh thiết phẫu thuật. Đây vẫn là một trong các phương pháp chính xác nhất để xác định liệu những biến đổi ở vú có phải là ung thư không. Trong thủ thuật này, phẫu thuật viên cắt bỏ toàn bộ hoặc một phần khối u vú. Nói chung, khối u nhỏ sẽ được cắt bỏ hoàn toàn (sinh thiết cắt bỏ). Nếu khối u lớn hơn, chỉ lấy một mẫu (sinh thiết rạch). Cách sinh thiết này thường được dùng trên bệnh nhân ngoại trú ở phòng khám hoặc bệnh viện. Xét nghiệm thụ thể estrogen và pro

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfugn_thu_vu_4867.pdf
Tài liệu liên quan