Tuyến giáp trạng có hình dạng của một con bướm nằm trước cổ, bên
dưới thanh quản, gồm hai phần (2 lobes hoặc 2 thùy). Hai phần này được
ngăn ra bởi isthmus, nằm giữa. Một tuyến giáp trạng bình thường có kích
thước khoảng 3-4 cm, nằm dưới da nên khó có thể sờ nắn.
Tuyến giáp trạng gồm hai loại tế bào, cả hai đều tiết nội tiết tố.
• Tế bào follicular (thyroid follicular cell) tiết ra nội tiết tố giáp trạng,
nộitiết tố này ảnh hưởng đến nhịp tim, huyết áp,thân nhiệt và trọng lượng.
• Tế bào C tiết ra calcitonin, nội tiết tố này điều tiết lượng calcium
trong máu.
Bốn tuyến cận giáp (parathyroid) nằm sau tuyến giáp trạng. Các tuyến
này tiết ra nội tiết tố parathyroid có nhiệm vụ giúp cơ thể duy trì một lượng
calcium cân bằng
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Ung thư tuyến giáp trạng (thyroid), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ung Thư Tuyến Giáp Trạng
(Thyroid)
Bác sĩ Trần Lý Lê, Chuyên Khoa Nội Thương và Khảo Cứu Y
Khoa
Tuyến giáp trạng có hình dạng của một con bướm nằm trước cổ, bên
dưới thanh quản, gồm hai phần (2 lobes hoặc 2 thùy). Hai phần này được
ngăn ra bởi isthmus, nằm giữa. Một tuyến giáp trạng bình thường có kích
thước khoảng 3-4 cm, nằm dưới da nên khó có thể sờ nắn.
Tuyến giáp trạng gồm hai loại tế bào, cả hai đều tiết nội tiết tố.
• Tế bào follicular (thyroid follicular cell) tiết ra nội tiết tố giáp trạng,
nội tiết tố này ảnh hưởng đến nhịp tim, huyết áp,thân nhiệt và trọng lượng.
• Tế bào C tiết ra calcitonin, nội tiết tố này điều tiết lượng calcium
trong máu.
Bốn tuyến cận giáp (parathyroid) nằm sau tuyến giáp trạng. Các tuyến
này tiết ra nội tiết tố parathyroid có nhiệm vụ giúp cơ thể duy trì một lượng
calcium cân bằng.
Căn bản về ung thư
Ung thư xuất phát từ tế bào, đơn vị căn bản của mô. Bình thường tế
bào da tăng trưởng, sinh sản và tạo tế bào mới. Mỗi ngày tế bào da già lão,
chết và tế bào mới thay thế.
Đôi khi tiến trình sinh hóa trật tự này trở nên bất thường. Tế bào mới
xuất hiện khi không cần thiết, và tế bào già lão hoặc tế bào hư hoại không
chết như đã định. Các tế bào dư thừa này tạo thành khối, gọi là khối u hay
bướu.
Bướu hay khối u có thể "lành" (benign) hoặc "độc" (cancerous):
Bướu lành:
• Ít khi gây tử vong
• Không ăn lậm (invasive) đến các mô lân cận
• Không lan xa đến những bộ phận khác trong cơ thể
Bướu độc như ung thư:
• Có thể gây tử vong
• Có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ, chữa trị
• Có thể ăn lậm đến các mô lân cận
• Lan ra các bộ phận khác; việc lan tràn của khối u gọi là metastasis.
Các loại ung thư tại tuyến giáp trạng
1. Papillary: chiếm 80-90% những loại ung thư giáp trạng, khởi thủy
từ loại tế bào follicular. Loại ung thư này tăng trưởng chậm, nếu tìm thấy
sớm, việc trị liệu có kết quả rất khả quan.
2. Follicular: Khoảng 15% các loại ung thư giáp trạng, loại ung thư
này xuất phát từ tế bào follicular, tăng trưởng chậm; nếu tìm thấy sớm, việc
trị liệu có kết quả rất khả quan.
3. Medullary: Khoảng 3% các loại ung thư giáp trạng, loại ung thư
này khởi thủy từ tế bào C. Loại ung thư này tạo ra một lượng calcitonin rất
cao; nếu tìm thấy sớm và trị liệu sớm trước khi ung thư lan ra những nơi
khác, kết quả rất khả quan.
4. Anaplastic: Loại ung thư giáp trạng hiếm có (khoảng 1-2%), khởi
thủy từ tế bào follicular. Loại ung thư này rất khó tìm và khó chữa vì tế bào
ung thư tăng trưởng nhanh chóng.
Dù chưa biết rõ nguyên nhân gây ung thư tuyến giáp trạng, nhưng y
học đã tìm ra một số yếu tố liên quan đến loại ung thư này, gia tăng tỷ lệ bị
ung thư, gọi là "risk factors". Tuy nhiên, vẫn có nhiều bệnh nhân bị ung thư
mà không có yếu tố rủi ro nào cũng như người có nhiều yếu tố rủi ro nhưng
vẫn không bị ung thư.
Các cuộc nghiên cứu cho thấy các yếu tố sau đây gia tăng tỷ lệ ung
thư tuyến giáp trạng:
• Quang tuyến: Những cuộc chữa trị quang tuyến quanh vùng cổ sẽ
gia tăng tỷ lệ ung thư tuyến giáp trạng, loại papillary hoặc follicular. Nguồn
quang tuyến thông thường nhất đến từ việc trị liệu. Từ những năm 1920 -
1950, bác sĩ thường sử dụng quang tuyến để chữa trị chứng sưng hạch hạnh
nhân (tonsils, amidal) ở trẻ em, mụn ở mặt (acne) cũng như những chứng
bệnh khác tại đầu & cổ. Những bệnh nhân này về sau, đa số đều bị ung thư
tuyến giáp trạng.
Những loại quang tuyến dùng để chẩn bệnh như X-ray chụp hình phổi
hoặc răng thường có lượng quang tuyến rất thấp so với loại quang tuyến
dùng vào việc trị liệu. Tuy nhiên, khi dùng thường xuyên lượng quang tuyến
có thể lên cao, nên thảo luận với bác sĩ, nha sĩ về việc dùng hình quang
tuyến để chẩn bệnh và chỉ dùng khi cần thiết.
Một nguồn quang tuyến khác đến từ việc thử bom nguyên tử, những
nhà máy chứa chất phóng xạ gặp tai nạn. Chẳng hạn như nguồn quang tuyến
đến từ hậu quả phóng xạ nguyên tử (radioactive fallout) khi thử bom nguyên
tử (tại Hoa Kỳ cũng như những nơi khác trên thế giới vào những năm 1950 -
1960), từ những trung tâm nguyên tử lực (nuclear power plants) gặp tai nạn
(Chernobyl năm 1986) và chất phóng xạ thải ra từ những nhà máy sản xuất
võ khí nguyên tử như Hansford tại tiểu bang Washington năm 1940. Những
chất phóng xạ này thường là I-131 (I*). Trẻ em nhiễm phóng xạ idodine, tỷ
lệ ung thư tuyến giáp trạng gia tăng rất cao khi trưởng thành.
• Thân quyến bị ung thư tuyến giáp trạng, loại medullary: Sự thay đổi,
hay biến thái của di thể (gene) RET truyền từ cha mẹ đến con cái. Thử máu
có thể tìm ra di thể RET đã biến thái. Khi tìm ra sự bất thường của di thể
RET trong những bệnh nhân với ung thư tuyến giáp trạng, loại medullary,
bác sĩ có thể đề nghị việc thử máu cho thân nhân của người bệnh hoặc có thể
đề nghị việc cắt bỏ tuyến giáp trạng trước khi phát ung thư. Khi loại ung thư
này tìm thấy ở nhiều người trong một gia đình, sách vở y học gọi là "familial
medullary giáp trạng cancer" hoặc "multiple endocrine neoplasia (MEN)
syndrome". Bệnh nhân với chứng MEN có thể bị một vài loại ung thư khác.
• Thân quyến bị bướu cổ (goiter) hoặc polyp tại ruột già: Tỷ lệ ung
thư tuyến giáp trạng loại papillary gia tăng trong những người có thân quyến
bị bướu cổ hoặc bị chứng polyps ở ruột già & trực tràng.
• Bị bướu cổ hay nổi khối u tại tuyến giáp trạng gia tăng tỷ lệ ung thư
tuyến giáp trạng.
• Phái tính: Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ ung thư tuyến giáp trạng ở phụ nữ cao
gấp 2-3 lần phái nam
• Tuổi tác: Bệnh nhân với chứng ung thư tuyến giáp trạng thường ở
tuổi 40 trở lên. Bệnh nhân với loại anaplastic thường ở tuổi 60 trở lên.
• Iodine & cách dinh dưỡng: Tuyến giáp trạng cần iodine để tạo nội
tiết tố giáp trạng. Iodine có trong hải sản như tôm cua và muối iodized.
Thiếu iodine trong thức ăn có thể gia tăng tỷ lệ ung thư tuyến giáp trạng, loại
follicular; quá nhiều iodine có thể gia tỷ lệ ung thư tuyến giáp trạng loại
papillary.
Triệu chứng
Ung thư tuyến giáp trạng thường không gây triệu chứng cho đến khi
vào thời kỳ trầm trọng:
• Khối u trước cổ gần quả táo Adam (nếu là phái nam)
• Khản tiếng hoặc phát âm khó khăn
• Sưng tấy hạch bạch huyết, nhất là những hạch ở quanh cổ.
• Khó nuốt, khó thở
• Rát cổ họng
Ngoài ung thư tuyến giáp trạng, những triệu chứng kể trên có thể xuất
hiện khi bị nhiễm trùng, bị bướu cổ hoặc những chứng bệnh khác. Nên đi
khám bệnh để tìm nguyên nhân.
Chẩn bệnh
Khi có một hoặc nhiều triệu chứng kể trên, nên đi khám bệnh. Bác sĩ
ghi nhận bệnh sử và thực hiện một hoặc nhiều loại thử nghiệm sau:
• Khám tổng quát: Bác sĩ sờ nắn vùng cổ, tuyến giáp trạng, hạch bạch
huyết và soi thanh quản để tìm dấu hiệu của sự sưng trướng.
• Thử máu để thẩm định lượng thyroid-stimulating hormone (TSH),
quá nhiều hay quá ít nội tiết tố này có nghĩa là tuyến giáp trạng không hoạt
động bình thường. Khi bác sĩ truy tìm loại ung thư medullary, sẽ đo lượng
calcium trong máu hoặc lượng calcitonin trong máu.
• Siêu âm: Dụng cụ này dùng sóng âm thanh để chụp hình thể của
tuyến giáp trạng và tìm kiếm những khối u; nếu có, đo kích thước của những
khối u và thẩm định xem những khối u này có chứa chất lỏng hay không.
Khối u chứa chất lỏng thường là bướu lành, khối u đặc là bướu độc.
• Radionuclide scanning: Bệnh nhân uống dung dịch chứa chất phóng
xạ, chất phóng xạ theo máu luân lưu khắp cơ thể. Những khối u "thấm" chất
phóng xạ xuất hiện rõ trên màn hình. Khối u có ít chất phóng xạ hơn những
tế bào chung quanh được gọi là khối u lạnh (cold nodule), những khối u lạnh
có thể là bướu độc hay ung thư. Những khối u nóng (hot nodules) "thấm"
nhiều chất phóng xạ hơn những tế bào chung quanh thường là những bướu
lành.
• Sinh thiết: Làm sinh thiết là cách chẩn bệnh ung thư chính xác nhất.
Bác sĩ làm sinh thiết bằng cách dùng kim hoặc dao mổ:
- Fine-needle aspiration: Bác sĩ dùng một kim nhỏ và hút tế bào từ
tuyến giáp trạng để thử nghiệm. Đôi khi, siêu âm được sử dụng để định chỗ
của khối u, giúp việc lấy tế bào dễ dàng hơn.
- Giải phẫu: Bác sĩ dùng dao mổ mở ra một vùng da ở cổ để lấy tế bào
giáp trạng làm sinh thiết.
Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm
sinh thiết):
-Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao?
-Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô?
-Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh
thiết? Có đau đớn lắm không?
-Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư
không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng?
-Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho
tôi hiểu?
-Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước
sắp tới? Và bao giờ?
Định kỳ ung thư
Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ cần định kỳ ung thư trước khi hoạch định
cách chữa trị. Định kỳ ung thư là việc đo kích thước khối u, thẩm định xem
ung thư đã lan chưa, nếu đã lan tràn thì lan đến bộ phận nào.
Ung thư tuyến giáp trạng lan đến hạch bạch huyết, phổi và xương. Khi
ung thư lan từ nơi xuất phát đến bộ phận khác, khối u mới có cùng loại tế
bào như khối u khởi thủy. Thí dụ, nếu ung thư tuyến giáp trạng lan đến phổi,
tế bào ung thư tại phổi là tế bào ung thư tuyến giáp trạng; đây là ung thư
tuyến giáp trạng lan đến phổi, không phải ung thư phổi. Do đó, căn bệnh
được chữa trị như ung thư tuyến giáp trạng. Bác sĩ gọi loại ung thư lan tràn
là "metastatic disease" hay ung thư di căn.
Việc định kỳ có thể bao gồm một hoặc nhiều loại thử nghiệm: Bác sĩ
có thể dùng siêu âm, MRI, CT để tìm xem ung thư đã lan đến hạch bạch
huyết hoặc đã lan ra những nơi khác trong vùng cổ. Đôi khi, bác sĩ dùng
những loại dụng cụ dùng chất phóng xạ để tìm ung thư, radionuclei scan,
khắp thân thể gọi là "diagnostic I-131 whole body scan". Tế bào ung thư
tuyến giáp trạng trong thân thể thu nhận chất phóng xạ này.
Chữa trị
Tùy theo loại ung thư, thời kỳ ung thư, kích thước khối u, tuổi tác và
ung thư đã lan hay chưa, ung thư tuyến giáp trạng có thể được chữa trị bằng
cách giải phẫu, Iodine chứa chất phóng xạ (radioactive iodine), nội tiết tố,
ngoại quang tuyến (external radiation), hoặc hóa chất. Đôi khi một hoặc
nhiều cách chữa trị được sử dụng cùng lúc.
Bác sĩ có thể giới thiệu quý vị đến một chuyên viên, hoặc quý vị có
thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến chuyên viên bác sĩ chuyên khoa về tuyến nội
tiết, endocrinologist; bác sĩ chuyên khoa về việc chữa trị tuyến giáp trạng
hay "thyroidologist". Những chuyên viên chữa trị ung thư bao gồm bác sĩ
chuyên khoa chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị ung thư hoặc bao gồm cả
chuyên viên điều dưỡng về ung thư và dinh dưỡng.
Giải phẫu và ngoại xạ trị là loại chữa trị tại chỗ, cắt bỏ hoặc diệt trừ
ung thư. Khi ung thư đã lan xa, việc chữa trị "tại chỗ" có thể dùng để giảm
triệu chứng.
Nội tiết tố giáp trạng, radioative iodine và hóa chất là những loại chữa
trị toàn thân. Những chất này theo máu luân lưu khắp cơ thể, diệt trừ tế bào
ung thư khắp nơi.
Trong bất cứ thời kỳ nào của ung thư, bác sĩ cũng có thể dùng những
cách chữa phụ, giảm đau, giúp bệnh nhân dễ chịu gọi là supportive care.
Nên thảo luận với bác sĩ về phản ứng phụ và việc chữa trị sẽ ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày ra sao. Hóa chất và xạ trị thường gây hư hoại
các tế bào bình thường nên phản ứng phụ thường xảy ra. Phản ứng phụ
không đồng nhất cho mọi người, và có thể thay đổi từ lần chữa trị này sang
lần chữa trị khác.
Trước khi bắt đầu bác sĩ sẽ giải thích rõ ràng về việc trị liệu và phản
ứng phụ có thể xảy ra, và cách tiết giảm.
Trước khi chữa trị, bệnh nhân nên hỏi bác sĩ những câu hỏi sau:
Chứng bệnh của tôi ở thời kỳ nào?
Tôi bị loại ung thư nào?
Làm thế nào để lấy bản sao của bản tường trình từ bác sĩ Bệnh Lý
(pathologist)?
Những cách chữa trị nào có thể dùng được? Bác sĩ đề nghị cách nào,
lý do tại sao? Các cách chữa trị có thay đổi không?
Tôi sẽ bị những biến chứng gì? Làm cách nào để giảm bớt những
biến chứng này?
Có biến chứng nào ảnh hưởng lâu dài hay không?
Cách chữa trị có ảnh hưởng nhiều đến đời sống hằng ngày hay
không?
Có cuộc thử nghiệm lâm sàng nào cho chứng bệnh của tôi hay
không?
Tôi có cần đi khám bệnh định kỳ thường xuyên không?
Giải phẫu
Giải phẫu là phương cách thông thường nhất để chữa trị ung thư tuyến
giáp trạng, bác sĩ có thể cắt bỏ một phần hoặc toàn thể tuyến giáp trạng tùy
theo loại tế bào, thời kỳ ung thư, kích thước khối u và tuổi tác của bệnh
nhân.
Có hai cách giải phẫu chính:
a. Cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp trạng (total thyroidectomy): Ngoài
tuyến giáp trạng, bác sĩ cắt bỏ cả hạch bạch huyết ở cổ và đôi khi, cả những
tế bào khác quanh tuyến giáp trạng. Khi tìm thấy tế bào ung thư tại hạch
bạch huyết có nghĩa là ung thư đã lan ra những nơi khác trong thân thể. I-
131 và ngoại quang tuyến có thể cũng được sử dụng trong việc chữa trị
những bệnh nhân này.
b. Cắt bỏ một thùy (lobectomy) là cách để chữa trị một số bệnh nhân
với loại ung thư papillary hoặc follicular. Bác sĩ có thể cắt bỏ những tế bào
chung quanh hoặc cả hạch bạch huyết, I-131 và ngoại quang tuyến có thể
cũng được sử dụng trong việc chữa trị những bệnh nhân này.
Hầu như mọi bệnh nhân sau khi giải phẫu đều cần uống (thuốc) nội
tiết tố giáp trạng.
Nếu bác sĩ cắt bỏ cả tuyến cận giáp, bệnh nhân sẽ cần uống thêm
calcium và sinh tố D suốt đời.
Đôi khi, giải phẫu gây hư hoại thần kinh hoặc bắp thịt và tạo ra việc
thay đổi giọng nói hoặc vai cao vai thấp.
Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ:
-Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi?
-Có cần cắt bỏ hạch bạch huyết hay không? Tuyến cận giáp có phải
cắt bỏ không? Tại sao?
-Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì?
-Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu?
-Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không? Nhiễm trùng, sưng
trướng, chảy máu?
-Tôi có cần dùng nội tiết tố giáp trạng không? Nếu cần thì bao giờ bắt
đầu? Tôi có cần dùng thuốc suốt đời không?
-Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường?
Nội tiết tố giáp trạng
Sau khi giải phẫu và dùng I-131, bệnh nhân cần nội tiết tố giáp trạng
để thay thế lượng nội tiết tố do cơ thể tạo ra. Tuy nhiên nội tiết tố cũng được
dùng để chữa trị ung thư tuyến giáp trạng loại papillary hoặc follicular. Nội
tiết tố khiến tế bào giáp trạng tăng trưởng chậm lại.
Nội tiết tố giáp trạng hiếm khi tạo phản ứng phụ. Bác sĩ sẽ thử máu
thường xuyên để thẩm định lượng nội tiết tố hiện diện trong máu. Quá nhiều
nội tiết tố giáp trạng sẽ gây xuống ký, gia tăng thân nhiệt và đổ mồ hôi, đôi
khi đau lồng ngực, vọp bẻ ở bắp thịt và tiêu chảy, những triệu chứng này gọi
chung là hyperthyroidism. Khi thiếu nội tiết tố giáp trạng, bệnh nhân sẽ lên
ký, cảm thấy lạnh, khô da và khô tóc, những triệu chứng này gọi chung là
hypothyroidism.
Hãy thảo luận với bác sĩ trước khi uống nội tiết tố giáp trạng:
- Tại sao tôi cần thuốc này?
- Thuốc này có công dụng gì?
- Tôi phải dùng thuốc bao nhiêu lâu?
Radioactive iodine (radioiodine therapy) Iodine chứa chất phóng xạ
(I-131)
Iodine chứa chất phóng xạ (I-131) được dùng để chữa trị ung thư
tuyến giáp trạng loại papillary hoặc follicular. Chất này huỷ diệt tế bào ung
thư và tế bào giáp trạng bình thường còn sót lại sau khi giải phẫu. Loại thuốc
này được dùng với một lượng nhỏ nên không tạo phản ứng phụ với những
người bị dị ứng. I-131 thấm qua ruột non vào máu luân lưu khắp cơ thể rồi
tích tụ lại ở những tế bào giáp trạng. Những tế bào giáp trạng ung thư khắp
nơi trong cơ thể sẽ bị hủy diệt bởi I-131.
Khi lượng iodine thấp, bệnh nhân có thể uống thuốc tại nhà. Nếu cần
dùng một lượng iodine cao, bệnh nhân sẽ ở bệnh viện trong những phòng
cách ly để những người chung quanh không bị nhiễm chất phóng xạ. Lượng
phóng xạ sẽ giảm khỏi cơ thể trong vài ngày và hoàn toàn ra khỏi cơ thể
trong 3 tuần lễ.
Trong thời gian chữa trị, bệnh nhân có thể bảo vệ bàng quan bằng
cách uống nhiều nước; uống nhiều nước giúp cơ thể đào thải I-131 dễ dàng.
Một vài bệnh nhân bị buồn nôn, ói mửa trong ngày đầu tiên; vài người
bị sưng trướng tại tuyến giáp trạng. Khi ung thư lan xa, những vùng cơ thể
nhiễm ung thư có thể đau đớn.
Bệnh nhân có thể bị khô miệng hoặc mất vị giác trong một thời gian
ngắn sau khi dùng I-131, nhại kẹo cao su hoặc ngậm kẹo sẽ bớt khô miệng.
Nam bệnh nhân có thể bị hiếm muộn, phụ nữ cần ngừa thai một năm
sau khi chữa trị.
Một số nhỏ bệnh nhân bị ung thư nhiều năm sau khi dùng I-131.
Một lượng lớn I-131 cũng diệt tế bào giáp trạng bình thường, sau khi
chữa trị, bệnh nhân sẽ cần dùng nội tiết tố giáp trạng để bù cho việc cơ thể
không còn tiết ra nội tiết tố giáp trạng nữa.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu dùng I-131 để
chữa trị:
-Tại sao tôi cần được chữa trị bằng loại thuốc này?
- Thuốc này có tác dụng gì?
-Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị?
-Tôi có cần vào bệnh viện để chữa trị không? Nếu cần thì ở bệnh viện
bao lâu?
- Làm thế nào để bảo vệ thân quyến tôi? và trong thời gian bao lâu?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Tôi có cần
tránh các thức ăn uống chứa iodine không? Nếu cần thì tránh bao nhiêu lâu?
Việc chữa trị ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao?
- Phản ứng phụ của I-131 là những gì? Tôi cần làm gì để giảm phản
ứng phụ?
- Trong tương lai, tôi có dùng I-131 nữa không?
Ngoại xạ trị
Dùng tia quang tuyến cao độ để đốt tế bào ung thư. Ngoại quang
tuyến được dùng tại nơi ung thư nên chỉ ảnh hưởng đến phần cơ thể đó.
Ngoại quang tuyến được sử dụng sau khi dùng I-131 không có kết quả,
thường chữa 5 ngày mỗi tuần trong nhiều tuần lễ.
Hầu hết bệnh nhân được chữa trị tại bệnh viện, mỗi lần chữa trị chỉ
kéo dài vài phút. Phản ứng phụ thường tùy thuộc vào lượng phóng xạ sử
dụng và nơi chữa trị. Xạ trị tại cổ thường gây khô, rát miệng và cổ họng,
khản tiếng, khó nuốt; vùng da trên cổ bị nóng rát, tấy đỏ.
Nên thảo luận với bác sĩ về phản ứng phụ và việc chữa trị sẽ ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày ra sao. Trước khi bắt đầu bác sĩ sẽ giải thích
rõ ràng về việc trị liệu và phản ứng phụ có thể xảy ra, và cách tiết giảm.
Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị:
- Mục đích của việc chữa trị là gì?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào?
- Có cách nào phòng ngừa không?
- Có phản ứng phụ lâu dài nào không?
- Khi nào thì bắt đầu? Bao lâu thì chữa trị xong?
-Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không?
Hóa chất trị liệu
Bác sĩ dùng hóa chất để hủy hoại tế bào ung thư, thuốc theo máu luân
lưu khắp cơ thể nên được xem là một loại chữa trị toàn thân (systemic), tại
tuyến giáp trạng và khắp cơ thể. Đây là các chữa trị dùng cho ung thư loại
anaplastic và giảm triệu chứng cho các loại ung thư khác.
Thuốc được chích vào mạch máu, theo máu luân lưu khắp cơ thể diệt
trừ tế bào ung thư khắp nơi. Bệnh nhân có thể ở tại bệnh viện, trung tâm y tế
văn phòng bác sĩ, hoặc tại nhà.
Việc chữa trị ung thư thường gây hư hoại cho những tế bào lành
mạnh, nên thường có phản ứng phụ. Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và
lượng thuốc sử dụng. Hóa chất thường ảnh hưởng đến những tế bào tăng
trưởng nhanh chóng như tế bào lót màng nhày trong miệng. Phản ứng phụ
thường thấy nhất là buồn nôn, ói mửa, lở miệng, biếng ăn và rụng tóc. Các
phản ứng phụ này sẽ thuyên giảm và châm dứt sau khi hoàn tất việc chữa trị.
Trước khi chữa trị qúy vị nên đặt câu hỏi với bác sĩ:
- Mục đích của việc chữa trị là gì?
-Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào?
-Có cách nào phòng ngừa không?
- Có phản ứng phụ lâu dài nào không?
Ý kiến thứ nhì
Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ
khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi
phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu.
Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử
nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường
không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể
thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình.
Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình,
hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa…
để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa.
Khám bệnh định kỳ
Bệnh nhân cần gặp bác sĩ để khám bệnh theo định kỳ. Ngay cả khi
không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm ung
thư có thể còn sót lại trong cơ thể. Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa
những buổi khám bệnh định kỳ. Ngoài ra, việc theo dõi lượng nội tiết tố giáp
trạng rất quan trọng, bác sĩ sẽ đo mực thyroglobulin trong máu (nội tiết tố
giáp trạng được dự trữ trong tuyến giáp trạng dưới hình thái thyroglobulin).
Khi tuyến giáp trạng bị cắt bỏ, lượng thyroglobulin sẽ rất thấp hoặc không
có trong máu. Khi tìm thấy một lượng thyroglobulin cao, có nghĩa là ung thư
đã tái phát.
Khoảng 6 tuần lễ trước khi đo lượng thyroglobulin, bệnh nhân phải
ngừng uống nội tiết tố giáp trạng và dùng một loại nội tiết tố có hiệu lực
ngắn hạn. Tuy nhiên, bệnh nhân cần ngưng tất cả mọi loại nội tiết tố giáp
trạng khoảng một tuần lễ trước khi đo thyroglobulin. Việc này bệnh nhân rất
mệt mỏi, lên ký. Sau khi thử máu, bệnh nhân sẽ tiếp tục uống nội tiết tố giáp
trạng để duy trì cơ thể.
Bác sĩ có thể dùng TSH chích vào cơ thể. Nếu có tế bào giáp trạng
còn sót lại, các tế bào này sẽ tạo ra thyroglobulin và lượng thyroglobulin sẽ
lên cao trong máu. Bệnh nhân dùng TSH sẽ không cần ngưng uống nội tiết
tố giáp trạng.
Bệnh nhân được chữa trị chứng medullary sẽ cần thử nghiệm mức
calcitonin và các chất khác trong máu.
Ngoài việc thử máu, việc khám bệnh có thể bao gồm:
- Siêu âm tại cổ để tìm dấu vết ung thư
- Scan toàn thân, bệnh nhân ngưng dùng nội tiết tố giáp trạng trong
nhiều tuần lễ hoặc dùng TSH. Bệnh nhân cần ngưng ăn tôm cua (chứa nhiều
iodine) trong 1-2 tuần lễ trước khi scan. Bác sĩ chích một lượng nhỏ chất
phóng xạ, tế bào ung thư sẽ thu nhận chất phóng xạ, và scan sẽ nhận ra
những nơi có tế bào ung thư.
- PET scan: Bác sĩ chích một lượng nhỏ đường phóng xạ, tế bào ung
thư dùng đường phóng xạ nhiều hơn tế bào bình thường, và scan sẽ nhận ra
những nơi có tế bào ung thư.
- CT scan và MRI
Dinh dưỡng
Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và
sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein,
sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân
thường cảm thấy dễ chịu hơn.
Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều
nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất
trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức
ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu
các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy.
Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy
thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách
dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và
khoáng chất (minerals).
Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những
hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc
vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn.
Những nguồn trợ giúp
Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người
bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên
điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua
những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu.
Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt
hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những
chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu.
Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ
hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm
hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn trợ giúp chia sẻ qua bạn hữu, thân
nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác.
Nguồn trợ giúp có thể bao gồm:
Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu
hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng. Chuyên viên xã hội, chuyên
viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần.
Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc
chuyên chở, trị liệu tại nhà…
Những nhóm trợ giúp: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân
khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và
việc chữa trị. Những nhóm trợ giúp này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện
thoại, hoặc qua internet.
Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh
thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình trợ giúp, dịch vụ
v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_4622.pdf