Ung thư dương vật ít gặp ở các nước Âu -Mỹ nhưng lại hay gặp ở Việt
Nam, các nước Đông Dương và Châu Á. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi 50-60, độ
tuổi trung bình là 55.
Trong số các yếu tố dễ gây bệnh thì chít hẹp bao quy đầu bẩm sinh
(phimosis) không được điều trị có vai trò không thể phủ nhận được. Vai trò của
herpes tái phát trong tiền sử của bệnh nhân còn chưa được xác định rõ ràng.
Ngược lại, việc cắt bao quy đầu ở thời kỳ sơ sinh và trẻ nhỏ gần như hoàn
toàn ngăn chặn được sự xuất hiện của loại tế bào ung thư này. Vai trò vệ sinh
dương vật là rất cơ bản: trên những người bị hẹp bao quy đầu, rất khó rửa phần
niêm mạc quy đầu.
Tế bào bọng dịch tiết niệu đạo, cặn nước tiểu cùng với vi trùng đóng lại
thành những đám bựa sinh dục (smegma) là nguy cơ chính gây ung thư. Ngoài ra
cũng phải kể đến các thương tổn tiền ung thư như bệnh hồng sản Queyrat hay
bệnh Bowen’s là những thương tổn nổi gờ, đỏ; nhìn qua vi thể thấy tế bào mất
phân cực, phân bào mạnh, cho nên cần đốt điện hoặc cắt bỏ tại chỗ để ngăn ngừa
khả năng biến chuyển thành ung thư xâm lấn.
5 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Ung thư dương vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UNG THƯ DƯƠNG VẬT
(Kỳ 1)
Ung thư dương vật ít gặp ở các nước Âu - Mỹ nhưng lại hay gặp ở Việt
Nam, các nước Đông Dương và Châu Á. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi 50-60, độ
tuổi trung bình là 55.
Trong số các yếu tố dễ gây bệnh thì chít hẹp bao quy đầu bẩm sinh
(phimosis) không được điều trị có vai trò không thể phủ nhận được. Vai trò của
herpes tái phát trong tiền sử của bệnh nhân còn chưa được xác định rõ ràng.
Ngược lại, việc cắt bao quy đầu ở thời kỳ sơ sinh và trẻ nhỏ gần như hoàn
toàn ngăn chặn được sự xuất hiện của loại tế bào ung thư này. Vai trò vệ sinh
dương vật là rất cơ bản: trên những người bị hẹp bao quy đầu, rất khó rửa phần
niêm mạc quy đầu.
Tế bào bọng dịch tiết niệu đạo, cặn nước tiểu cùng với vi trùng đóng lại
thành những đám bựa sinh dục (smegma) là nguy cơ chính gây ung thư. Ngoài ra
cũng phải kể đến các thương tổn tiền ung thư như bệnh hồng sản Queyrat hay
bệnh Bowen’s là những thương tổn nổi gờ, đỏ; nhìn qua vi thể thấy tế bào mất
phân cực, phân bào mạnh, cho nên cần đốt điện hoặc cắt bỏ tại chỗ để ngăn ngừa
khả năng biến chuyển thành ung thư xâm lấn.
Giải phẫu bệnh lý
Đại thể: Cho dù ở thể sùi hay loét, thâm nhiễm thì loại ung thư này cũng
hay gặp ở vị trí mặt trong của bao quy đầu, trong rãnh quy đầu, bao quy đầu và
trên mặt trước của quy đầu. Ta ít gặp các ung thư trên vỏ bao quy đầu và mặt
ngoài bao quy đầu.
Vi thể: Thực tế, những ung thư này luôn là ung thư biểu mô dạng biểu bì,
biệt hóa cao và chín muồi (ung thư biểu mô gai sừng hóa).
Tiến triển giải phẫu bệnh: các ung thư của bao quy đầu lan tràn trên bề
mặt hơn là vào sâu, trong khi các ung thư của quy đầu thì thâm nhiễm và xâm lấn
nhanh vào các cột hang (corpus caverneux); niệu đạo không bị ảnh hưởng ngay cả
trường hợp u rất tiến triển.
Xâm lấn dòng bạch huyết tại vùng thể hiện ở hạch bẹn, hạch chậu ngoài và
hạch chậu nguyên ủy.
Đối với di căn phủ tạng, ta có thể gặp di căn phổi, gan, hệ thần kinh, nhất là
khi thể hang bị xâm lấn.
Lâm sàng
Ít bệnh nhân đến khám khi bệnh còn ở thời kỳ đầu và nhiều bệnh nhân chỉ
đến khám một năm sau khi u tiến triển.
Ở thời kỳ đầu ta xếp bệnh nhân vào hai loại:
Ung thư mà ta chưa phát hiện thấy: Đó là một ung thư phát triển trên một
bao quy đầu chít hẹp, dương vật lúc đó có thể lắc chuông. Sờ vào ta thấy ở bao
quy đầu có đám cứng như bìa cactông, bóp ra thì thấy ở lỗ của bao quy đầu chảy
dịch nhầy, lẫn máu và có mùi hôi. Đôi khi thương tổn kèm bội nhiễm gây xâm lấn
tới mức làm thủng bao quy đầu và lúc đó ta thấy xuật hiện một khối u loét sùi và
dễ chảy máu khi chạm nhẹ.
Ung thư mà ta phát hiện thấy: Đó là ung thư không phát triển từ phimosis.
Được biểu hiện dưới hai thể về lâm sàng:
- Thể lồi, sùi hoặc nhú.
- Thể loét.
Qua khám lâm sàng, ta đánh giá mức độ lan rộng, xâm lấn tại chỗ ở cột
hang và cột xốp và mức độ xâm lấn tại vùng bằng cách tìm hạch bẹn.
Chẩn đoán được khẳng định bằng sinh thiết sau khi mở da bao quy đầu
hoặc cắt phimosis, vì nó che dấu tổn thương.
Tất cả những người hẹp bao quy đầu tới một lứa tuổi nhất định nào đó mà
thấy sưng phù ở dương vật kèm theo hạch đều phải nghĩ tới ung thư dương vật.
Cần phải tôn trong nguyên tắc của Chevassu: “Khi có phimosis sau 40 tuổi loại trừ
bệnh đái thóa đường thì cần phải nghi ngờ một ung thư ngay”.
Ngoài ra, mọi dấu hiệu hạch bẹn đều phải chọc tế bào để xác định xem liệu
đó có phải là phản ứng viêm nhiễm hay không, hay là dấu hiệu của di căn.
Các thương tổn khởi phát: Bên cạnh những ung thư dễ phát hiện và đã rõ
ràng, cần phải phát hiện những thương tổn tiền ung thư như hồng sản
(erythroplasie) được biểu hiện như là những mảng đỏ thuần nhất. Khi đó chủ yếu
để xác định chẩn đoán là sinh thiết và sẽ cho phép điều trị trong những điều kiện
tốt nhất.
Các phương pháp điều trị
Phẫu thuật
Phẫu thuật u có ba cách can thiệp:
- Cắt bỏ u đơn thuần sau khi đã cắt bao quy đầu.
- Cắt cụt dương vật bán phần hay toàn phần lên 3cm phía trên thương tổn
hoặc tốt hơn thì cắt rộng tới sát xương mu hoặc có thể cần thiết thì cắt bỏ toàn bộ
cột hang tới tận điểm bám vào xương chậu và hành hang (bulbe). Cuối cùng là
khâu loe niệu đạo ra tầng sinh môn sau dây chằng bìu.
Khi cắt niệu đạo, niệu đạo hay bị co vào nên cần cắt cao 1-2cm, rạch đôi
niệu đạo một đoạn 2cm khâu loe ra hình chuôi vợt để tránh chít hẹp niệu đạo về
sau.
- Cắt bỏ toàn bộ bộ phận sinh dục (gồm cả bìu và tinh hoàn), cách này ngày
càng bị bác bỏ vì ai cũng biết vai trò quan trọng của tinh hoàn về nội tiết, chỉ trừ
khi u quá rộng mới cần phải thực hiện như vậy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_thu_duong_vat_doc_1_1838.pdf
- ung_thu_duong_vat_doc_2_5174.pdf