Mở đầu: Rối loạn giọng là một trong những vấn đề thường gặp ở các phòng khám Tai Mũi Họng. Có nhiều
nguyên nhân gây rối loạn giọng, trong đó liệt dây thanh một bên tư thế mở là nguyên nhân thường được nhắc
đến.Hiện chưa có nghiên cứu sử dụng phân tích âm để đánh giá trong chẩn đoán rối loạn giọng và đánh giá hiệu
quả điều trị tiêm mỡ tự thân ở những bệnh nhân rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở.
Mục tiêu: Chẩn đoán rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở và đánh giá hiệu quả tiêm mỡ tự
thân điều trị rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở bằng phương pháp phân tích âm các chỉ số Jitter,
Shimmer, HNR.
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu mô tả có can thiệp 42 trường hợp rối loạn giọng do liệt
dây thanh một bên tư thế mở có độ tuổi trên 15 đến khám và điều trị bằng tiêm mỡ tự than tại BV Nhân dân Gia
Định
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 686 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Ứng dụng ghi âm và phân tích âm vào chẩn đoán và đánh giá hiệu quả điều trị liệt dây thanh một bên tư thế mở, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 222
ỨNG DỤNG GHI ÂM VÀ PHÂN TÍCH ÂM VÀO CHẨN ĐOÁN
VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY THANH
MỘT BÊN TƯ THẾ MỞ
Nguyễn Huy Cường*, Trần Việt Hồng**, Nguyễn Thị Ngọc Dung***
TÓM TẮT
Mở đầu: Rối loạn giọng là một trong những vấn đề thường gặp ở các phòng khám Tai Mũi Họng. Có nhiều
nguyên nhân gây rối loạn giọng, trong đó liệt dây thanh một bên tư thế mở là nguyên nhân thường được nhắc
đến.Hiện chưa có nghiên cứu sử dụng phân tích âm để đánh giá trong chẩn đoán rối loạn giọng và đánh giá hiệu
quả điều trị tiêm mỡ tự thân ở những bệnh nhân rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở.
Mục tiêu: Chẩn đoán rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở và đánh giá hiệu quả tiêm mỡ tự
thân điều trị rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở bằng phương pháp phân tích âm các chỉ số Jitter,
Shimmer, HNR.
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu mô tả có can thiệp 42 trường hợp rối loạn giọng do liệt
dây thanh một bên tư thế mở có độ tuổi trên 15 đến khám và điều trị bằng tiêm mỡ tự than tại BV Nhân dân Gia
Định.
Kết quả: Chỉ số Jitter, Shimmer, HNR đều rối loạn ở mức vừa và nặng trước phẫu thuật. Sau phẫu thuật
giá trị các trị số cải thiện về gần giá trị của nhóm bình thường.Trong đó HNR cải thiện nhiều nhất.Tỷ lệ thành
công sau phẫu thuật tiêm mỡ tự thân là 92.8%. Có sự tương quan giữa đánh giá bằng cảm nhận chủ quan và
đánh giá bằng phân tích âm với r = 0,760 ; P < 0,01.
Kết luận: Dùng phân tích âm có thể đánh giá mức độ rối loạn giọng trong chẩn đoán và đánh giá hiệu quả
điều trị rối loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở.Có mối tương quan mạnh giữa đánh giá bằng phương
pháp cảm nhận chủ quan và bằng phương pháp khách quan phân tích âm.
Từ khoá: liệt dây thanh một bên tư thế mở, tiêm mỡ tự thân, Jitter, Shimmer, HNR.
ABSTRACT
APPLICATION OF RECORDING AND VOICE ANALYSIS IN DIAGNOSIS AND EVALUATING THE
TREATMENT EFFICACY OF UNILATERAL ADDUCTOR VOCAL CORD PARALYSIS
Nguyen Huy Cuong, Tran Viet Hong, Nguyen Thi Ngoc Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 222 ‐ 227
Background: Voice disorder is one of the most common problems at the ENT clinics.There are many causes
of voice disorder and unilateral adductor vocal cord paralysis is the one that is mentioned frequently.There is not
any research about using voice analysis to evaluate the diagnosis of voice disorder and evaluate the treatment
efficacy of autologous fat injection on voice disorder patients caused by unilateral adductor vocal cord paralysis
until now.
Objectives: To diagnosis voice disorder and evaluate treatment efficacy of unilateral adductor vocal cord
paralysis by voice analysis the Jitter, Shimmer, and HNR index.
Method: Aprospective, descriptive and interventional study included 42 patients who were older than 15
* Cao học bộ môn TMH, ĐH Y Dược TP.HCM ** Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
*** ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Huy Cường ĐT: 0907854950 Email: cuong_nguyen102@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 223
years old and had voice disorder caused by unilateral adductor vocal cord paralysis.These patients were examined
and treated with autologous fat injection at Gia Dinh People Hospital.
Results: The Jitter, Shimmer and HNR index fluctuated also at moderate and severe levels before surgery.
Its values had improved to the normal values of the normal group after surgery and the HNR index had improved
the most. The successful rate after autologous fat jnjection surgery was 92.8%. There was a correlation between
evaluation by self‐perception and evaluation by voice analysis with value r = 0.760 and P < 0.01.
Conclusion: Using voice analysis can evaluate the voice disorder level in diagnosis and evaluate the
treament efficacy of voice disorder caused by unilateral adductor vocal cord paralysis. There was a strong
correlation between evaluation by self‐ perception method and evaluation by voice analysis method.
Keywords: unilateral adductor vocal cord paralysis, autologous fat injection, Jitter, Shimmer, HNR
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn giọng là một trong những vấn đề
thường gặp ở các phòng khám tai mũi họng. Các
nguyên nhân gây rối loạn giọng là do sử dụng
giọng nói không đúng, lạm dụng giọng nói quá
mức hoặc có các tổn thương lành tính ở dây
thanh hay tình trạng dây thanh bị liệt.
Trên thế giới: Wertzner H.F. (2005)dùng
phân tích âm để nghiên cứu trên những trẻ em
bị rối loạn phát âm.Yu Zhang (2006) nghiên
cứu về các phân tích âm thanh phát ra và âm
thanh lúc nói ở những bệnh nhân có bệnh lý
thanh quản.
Tại Việt Nam đã có Nguyễn Tuyết Xương
(2004) và Tăng Xuân Hải (2006) dùng chương
trình Praat đánh giá giọng nói ở những bệnh
nhân bị u lành tính dây thanh bước đầu ghi
nhận được sự thay đổi tương ứng của các chỉ số
trong phân tích âm và giọng nói ở bệnh nhân
sau phẫu thuật.
Hiện tại ở trong nước chưa có nghiên cứu
về phân tích âm trên những bệnh nhân bị liệt
dây thanh một bên tư thế mở.Vì vậy, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu về đề tài “Ứng dụng ghi
âm và phân tích âm vào chẩn đoán và đánh
giá hiệu quả điều trị liệt dây thanh một bên
tư thế mở”
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với hai mục
tiêu sau:
1. Chẩn đoán rối loạn giọng do liệt dây
thanh một bên tư thế mở bằng phương pháp
phân tích âm.
2. Phân tích âm đánh giá hiệu quả phương
pháp tiêm mỡ tự thân qua phẫu thuật nội soi
điều trị phục hồi giọng nói do liệt dây thanh một
bên tư thế mở.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp tiến cứu mô
tả có can thiệp
Đối tượng nghiên cứu
Gồm những bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên bị
rối loạn giọng nói, mất tiếng, khàn tiếng, hụt hơi
đến khám tại phòng khám Tai Mũi Họng BV
Nhân dân Gia Định có chẩn đoán xác định liệt
dây thanh một bên tư thế mở thỏa tiêu chuẩn
chọn bệnh và tiêu chuẩn loại trừ.
Cỡ mẫu
Chúng tôi áp dụng công thức ước tính cỡ
mẫu:
; với
(ES : hệ số ảnh hưởng)
Chọn độ tin cậy 95% (a=0,05), power = 0,95
(b=0,05),ta có C = 13 ; Giả định hệ số tương quan
r giữa 2 lần đo là 0,8
Dựa theo kết quả nghiên cứu của tác giả
Trần Việt Hồng có giá trị trung bình HNR ở
nhóm chứng 24,936 dB, độ lệch chuẩn của
nhóm chứng là 4,471dB. Chúng tôi ước
lượng giá trị trung bình của nhóm can thiệp là
22,6dB.
Thay các giá trị vào tính được:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 224
Vậy cỡ mẫu cần chọn là n ≥ 39 bệnh
nhân.Chúng tôi chọn cỡ mẫu n =40
Tiêu chuẩn chọn bệnh
‐ Bệnh nhân liệt dây thanh 1 bên tư thế mở
có rối loạn giọng với thời gian kéo dài > 6 tháng
‐ Bệnh nhân liệt dây thanh 1 bên tư thế mở
do tất cả các nguyên nhân
‐ Bệnh nhân được xác định chẩn đoán liệt
dây thanh qua đánh giá lâm sàng, nội soi thanh
quản, soi hoạt nghiệm thanh quản.
‐ Bệnh nhân tự nguyện tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
‐ Bệnh nhân bị rối loạn giọng nói do hở
thanh môn nguyên nhân từ u thanh quản, teo
dây thanh, khuyết lõm dây thanh, trật khớp
sụn phễu, liệt dây thanh tư thế khép, liệt 2 bên
dây thanh.
‐ Bệnh nhân bị thiểu năng trí tuệ, rối loạn
tâm thần.
Phương tiện nghiên cứu
Phòng cách âm, máy vi tính có cài phần
mềm ghi âm Sound Forge 8.0 và phần mềm
phân tích âm Praat, kèm theo micro ghi âm
chuyên dụng.
Thời gian nghiên cứu
Từ 1/ 8 /2012 đến 30/ 7 /2013.
Phương pháp tiến hành
Đánh giá mức độ rối loạn giọng theo tiêu
chuẩn chủ quan
Trước phẫu thuật: Cho BN tự đánh giá giọng
nói của bản thân.
‐ Mức độ nhẹ: giọng nói hơi khàn, bị hụt
hơi ít
‐ Mức độ vừa: giọng nói khàn nhiều, hụt hơi
thường xuyên
‐ Mức độ nặng: giọng nói gió, không thành
âm sắc, không nói to được và nhanh mệt.
Sau phẫu thuật: Đánh giá mức độ hài lòng
của bệnh nhân về giọng nói
+ Mức độ hài lòng cao: bệnh nhân cảm thấy
bình thường hoặc còn khàn rất nhẹ, giọng nói
không hụt hơi, không bị mệt
+ Mức độ hài lòng vừa: bệnh nhân cảm thấy
giọng nói được cải thiện nhiều hơn trước phẫu
thuật, giọng nói còn khàn nhẹ, nhưng không bị
hụt hơi, không bị mệt nhưng chưa được như
bình thường
+ Mức không hài lòng: giọng nói khàn như
trước phẫu thuật hay khàn nhiều hơn.
Đánh giá mức độ rối loạn giọng theo tiêu
chuẩn khách quan
Quy trình ghi âm giọng nói :
‐ Ghi âm: Bệnh nhân ở tư thế ngồi thoải
mái trong phòng cách âm, quy trình cách thức
ghi âm thống nhất giống nhau cho tất cả bệnh
nhân, 2 thời điểm trước phẫu thuật và sau
phẫu thuật 1 tháng.
‐ Nội dung ghi âm: Bệnh nhân đọc phần
hành chính; phát âm các nguyên âm (a) kéo dài;
đếm số từ 1 đến 10; hát 1 đoạn bài hát “Như có
Bác Hồ trong ngày vui Đại thắng”.
‐ Kỹ thuật ghi âm: Bệnh nhân ngồi cầm
micro đặt nghiêng 450 so với mặt phẳng ngang
miệng, đưa micro ra trước cách miệng 7cm.
Bệnh nhân cầm bảng hướng dẫn nội dung ghi
âm và tiến hành đọc phát âm theo bảng.
Người ghi âm điều khiển phần mềm Sound
Fort 8 trên máy vi tính, ghi giọng nói bệnh
nhân lưu vào tập tin ghi âm.
Quy trình phân tích âm
‐ Mở phần mềm Praat. Mở các File ghi âm
giọng nói đã lưu. Ghi nhận kết quả đo các chỉ
số Jitter, Shimmer, HNR từ phần mềm Praat.
Sau đó tiến hành đánh giá giá trị các chỉ số
bằng cách chia thang điểm dựa vào giá trị
trung bình của nhóm đo được và giá trị trung
bình của nhóm chứng.
Đánh giá các chỉ số Jitter, Shimmer, HNR
trước và sau phẫu thuậttheo thang điểm
‐ Sử dụng giá trị Jitter trung bình từ mẫu đo
được và giá trị Jitter của nhóm chứng được thực
hiện trong nghiên cứu của Trần Việt Hồng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 225
+ 1 điểm: Bình thường: Giá trị Jitter đo
được ≤ 0,484% (nhóm chứng)
+ 3 điểm: Rối loạn mức thấp: 0,484%
(nhóm chứng) <Giá trị Jitter đo được < Giá trị
trung bình Jitter của Nhóm bệnh
+ 5 điểm: Rối loạn mức cao: Giá trị Jitter đo
được ≥ giá trị trung bình của Nhóm bệnh.
Lập bảng đếm số trường hợp theo thang
điểm và tính tỷ lệ% tương ứng.
Tương tự chia thang điểm đánh giá các chỉ
số Shimmer, HNR trước phẫu thuật. Sau đó
cộng các điểm số lại đánh giá theo thang điểm
tổng hợp chia làm 4 mức độ : Bình thường (3
điểm) ; Rối loạn nhẹ (4‐ 7 điểm); Rối loạn vừa
(9‐11 điểm); Rối loạn nặng (13‐ 15 điểm).
KẾT QUẢ
Chúng tôi đã tiến hành thu thập số liệu,
đánh giá các triệu chứng lâm sàng trên 42
bệnh nhân phù hợp theo tiêu chuẩn chọn mẫu
và được chẩn đoán xác định liệt dây thanh một
bên qua nội soi thanh quản, các xét nghiệm
tiền phẫu đều cho giá trị bình thường, các
bệnh nhân đều được phẫu thuật với phương
pháp tiêm mỡ vào 1 bên dây thanh. Không có
bệnh nhân bị tai biến trong và sau phẫu thuật.
Bệnh nhân được xuất viện trong ngày hoặc
ngày hôm sau.
Đặc điểm dịch tễ học
Tuổi
Mẫu bệnh nhân nghiên cứu có tuổi từ 16 –
69 trong đó tuổi trung bình trong nhóm nghiên
cứu của chúng tôi là 43,9. Nhóm tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất là nhóm từ 30 – 49 (38%), kế đến là
nhóm tuổi trên 50 (43%).
Giới tính
Giới nữ chiếm tỷ lệcao hơn hẳn (71%) so
với giới nam. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với P <0,05.
Đặc điểm lâm sàng
Nguyên nhân
Bảng 1: Các nguyên nhân của liệt dây thanh một bên
Nguyên nhân Số trường hợp Tỷ lệ%
Sau phẫu thuậttuyến giáp 17 40,5%
Sau phẫu thuật u não 3 7,1%
Sau phẫu thuật u vùng cổ trung
thất 6 14,4%
Sau Xạ trị K giáp, K vòm 2 4,8%
Sau chấn thương sọ não 1 2,4%
Sau đợt viêm họng 1 2,4%
CRNN 12 28,6%
Tổng số 42 100 %
Nhận xét: trong mẫu khảo sát nguyên nhân
gây liệt dây thanh một bên chiếm tỷ lệcao nhất
làsau phẫu thuậttuyến giáp với 40,5%, kế đến
là nhóm chưa rõ nguyên nhân (CRNN) có tỷ lệ
là 28,6%.Nhóm nguyên nhân sau phẫu thuật u
vùng cổ, trung thất chiếm tỷ lệ 14,4% còn lại là
nguyên nhân sau xạ trị K giáp, K vòm (4,8%),
nguyên nhân sau chấn thương sọ não và sau
đợt viêm họng chiếm tỷ lệbằng nhau
(2,4%).Tổng tỷ lệ các nguyên nhân sau phẫu
thuật là 62%.
Mức độ khàn tiếng trước phẫu thuật
Bảng 2: Mức độ khàn tiếng trước phẫu thuật
Mức độ khàn tiếng Số trường hợp Tỷ lệ%
Nặng 26 61,9%
Vừa 16 38,1%
Nhẹ 0 0 %
Tổng số 42 100%
Nhận xét: Khàn tiếng mức độ nặng chiếm
tỷ lệ cao (61,9%),còn lại là khàn tiếng mức độ
vừa tỷ lệ 38,1%. Trong mẫu bệnh nhân khảo
sát không có trường hợp khàn tiếng mức độ
nhẹ.
Kết quả phân tích các chỉ số trước phẫu
thuật
Kết quả chỉ số Jitter trước phẫu thuật
Nhận xét: tỷ lệ nhóm có Jitter rối loạn cao
chiếm tỷ lệcao nhất (57,1%), còn lại là nhóm có
rối loạn thấp (42,9%).
Kết quả chỉ số Shimmer trước phẫu thuật
Nhận xét: tỷ lệnhóm có Shimmer rối loạn cao
chiếm tỷ lệ cao nhất (52,4%), còn lại là nhóm có
Jitter rối loạn thấp (47,6%).
Kết quả chỉ số HNR trước phẫu thuật
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 226
Nhận xét: tỷ lệ nhóm HNR có rối loạn cao
chiếm tỷ lệcao nhất (59,5%), còn lại là nhóm có
HNR rối loạn thấp (40,5%).
Kết quả đánh giá sau phẫu thuật
Mức độ hài lòng sau phẫu thuật
Bảng 3: Mức độ hài lòng sau phẫu thuật
Mức độ hài lòng Số trường hợp Tỷ lệ%
Cao 23 54,7%
Vừa 16 38,1%
Không hài lòng 3 7,2%
Tổng số 42 100 %
Nhận xét: sau PT mức độ hài lòng cao
chiếm tỷ lệ cao (54,7%), kế đến làhài lòng ở
mức độ vừa (38,1%) còn lại làtỷ lệ không hài
lòng chiếm tỷ lệ ít 7,2%. Tổng tỷ lệ hài lòng cao
và hài lòng mức độ vừa là 92,8% đây cũng
chính là tỷ lệ thành công sau PT qua đánh giá
bằng cảm nhận chủ quan.
Kết quả đánh giá chung các chỉ số Jitter,
Shimmer, HNR trước và sau phẫu thuật
Bảng 4: Đánh giá chung các chỉ số Jitter, Shimmer,
HNR trước và sau PT
Chỉ số Trước phẫu thuật
Sau phẫu
thuật
Nhóm
chứng P
Jitter(%) 2,682 1,016 0,484 P < 0,05
Shimmer(%) 8,865 4,232 3,439 P < 0,05
HNR(dB) 15,501 23,935 24,936 P < 0,05
Nhận xét: Jitter sau phẫu thuật (1,016%) giảm
hơn một nửa so với trước phẫu thuật
(2,682%),giá trị Shimmer sau phẫu thuật
(4,232%) giảm hơn một nửa so với trước phẫu
thuật (8,865%). Kết quả HNR sau phẫu thuật
(23,935dB) tăng nhiều so với trước phẫu thuật
(15,501dB).
Kết quảvề thời gian phát âm nguyên âm (a)
Bảng 5: Thời gian phát âm nguyên âm (a)
Trước phẫu
thuật (giây)
Sau phẫu
thuật (giây)
Trung bình Thời gianphát
âm nguyên âm (a) 4,211 6,820
Nhận xét: Thời gian phát âm nguyên âm (a)
trung bình sau phẫu thuật có kéo dài hơn thời
gian phát âm nguyên âm (a) trung bình trước
phẫu thuật và gấp 1,5 lần thời gian phát âm
trung bình trước phẫu thuật. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (P=0,000 <0,05).
BÀN LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu 42 trường hợp rối
loạn giọng do liệt dây thanh một bên tư thế mở
chúng tôi nhận thấy:
Về tuổi
Sự phân bố theo tuổi không có ý nghĩa
thống kê. Điều này phù hợp với ghi nhận của
một số tác giả trong nước và tác giả nước
ngoài
Về giới
Giới nữ chiếm đa số (71%) so với giới nam
(19%). Kết quả này có thể do giới nữ là đối
tượng có nhu cầu sử dụng giọng nói nhiều hơn
và có sự quan tâm đến sức khỏe nhiều hơn nam
giới.
Về vị trí dây thanh liệt
Kết quả khảo sát cho thấy đa số trường hợp
là liệt dây thanh bên trái (88%). Đối chiếu với kết
quả của tác giả Laccourreye khi nghiên cứu 80
trường hợp rối loạn giọng được tiêm mỡ dây
thanh cũng có kết quả liệt dây thanh bên trái
chiếm tỷ lệ đa số (85%). Sở dĩ có tỷ lệ cao này là
do cấu trúc giải phẫu, đường đi của dây thần
kinh quặt ngược thanh quản bên trái phức tạp
hơn, và liên quan nhiều cấu trúc (tâm nhĩ trái,
cung động mạch chủ) so với bên phải.
Về kết quả phân tích âm trước mổ
Hầu hết các giá trị Jitter, Shimmer, HNR đều
rối loạn ở mức độ vừa và nặng, các giá trị đều
tăng cao hơn rất nhiều so với nhóm chứng. So
với kết quả đo được của các tác giả Nguyễn
Tuyết Xương, Yu Zhang giá trị các chỉ số của
chúng tôi có cao hơn. Nguyên nhân có thể do
đặc điểm bệnh lý của nhóm bệnh nhân nghiên
cứu của chúng tôi khác với các tác giả trên.
Về kết quả phân tích âm sau mổ
Các giá trị cải thiện nhiều so với trước mổ,
thay đổi theo hướng về gần giá trị của nhóm
chứng, trong đó giá trị của HNR thay đổi
nhiều nhất. Tỷ lệ thành công sau phẫu thuật
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Tai Mũi Họng 227
theo cách đánh giá bằng cảm nhận chủ quan
và theo phương pháp phân tích âm đều cho
kết quả là 92.8%. Khi so sánh với tỷ lệ cải thiện
sau phẫu thuật của các tác giả trong nước và
ngoài nước đều có tỷ lệ chênh lệch tương đối
ít: Nguyễn Đức Tùng (90%), Laccourreye
(92,5%), Hisung (95%). Vì vậy kết quả nghiên
cứu của chúng tôi là phù hợp.
KẾT LUẬN
1. Phân tích âm trong chẩn đoán rối loạn
giọng trên bệnh nhân liệt dây thanh một bên tư
thế mở ghi nhận có sự rối loạn giá trị các chỉ số
Jitter, Shimmer và HNR ở mức rối loạn vừa và
rối loạn nặng.
2. Kết quả sau điều trị bằng tiêm mỡ tự
thân,giá trị trung bình các chỉ số Jitter,
Shimmer và HNR có thay đổi rõ rệt so với các
giá trị trung bình Jitter, Shimmer và HNR
tương ứng trước phẫu thuật (P<0,05). Giá trị
các chỉ số cải thiện về gần nhóm chứng, chỉ số
HNR cải thiện nhiều nhất
3. Phương pháp điều trị tiêm mỡ tự thân vào
dây thanh có hiệu quả với tỷ lệ thành công sau
phẫu thuật là 92,8%.Có sự tương quan giữa 2
phương pháp đánh giá bằng cảm nhận chủ
quan và phân tích âm với r = 0,760, P <0,01.
4. Trong nghiên cứu của chúng tôi có đánh
giá bước đầu về yếu tố thời gian phát âm
nguyên âm (a). Kết quả giá trị trung bình thời
gian phát âm nguyên âm (a) sau phẫu thuật
(6,820 giây) kéo dài hơn so với trước phẫu thuật
(4,211 giây).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boersma P, David W (2006). “Voice analysis: Jitter, Shimmer,
noise”, Voice, Institute of Phonetics Sciences of the University
of Amsterdam.
2. Hsiung MW (2006). “Autogenous fat injection for glottic
insuffiency: analysis of 101 cases and correlation with
patient’s self assessment”, Acta Otolaryngol, 126 (2), pp.191‐
196.
3. Laccourreye O, Papo JF (2003), “Intracordal ịnection of
autologous fat in patients with unilateral nerve paralyse: long
term results from the patients perspective”,Laryngoscope, 113,
pp. 541 – 545.
4. Ngô Ngọc Liễn (2002), Bệnh giọng thanh quản ở giáo viên tiểu
học Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
5. Nguyễn Thị Ngọc Dung (2008), “Liệt thanh quản”. In: Nhan
Trừng Sơn, Tai Mũi Họng, Tập 2, tr.349‐358. Nhà xuất bản Y
học, TP. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Tuyết Xương (2004), Nghiên cứu tình hình u lành tính
dây thanh và đánh giá kết quả vi phẫu qua phân tích ngữ âm, Luận
văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
7. Tăng Xuân Hải (2006), Nhận xét lâm sàng, mô bệnh học của polyp
dây thanh và ảnh hưởng đến đặc trưng bệnh lý của chất thanh,
Luận văn tốt nghiệp Chuyên khoa II, Đại học Y Hà Nội.
8. Trần Việt Hồng (2010), Vi phẫu thuật thanh quản người lớn qua
nội soi ống cứng, Luận án tiến sĩ y học, Đại học y dược TP. Hồ
Chí Minh.
9. Wertzner HF (2005), “Analysis of fundamental frequency,
jitter, shimmer and vocal intensity in children with
phonological disorders”, Braz J Otorhinolaryngol, 71(5), pp.582‐
8.
10. Zhang HY, et al (2006), “Acoustic analyses of sustained and
running voices from patients with laryngeal pathologies”,
Journal of voice, 22(1), pp.1‐9.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 222_7116.pdf