Năm 1832, Thomas Hodgkin (người Anh) lần đầu tiên mô tả về lâm sàng 7 trường
hợp bệnh của hạch và lách. Năm 1898, Karl Sternberg (người Ðức) và Dorothy Reed (người
Mỹ) mô tả các đặc điểm của tế bào sau này mang tên của họ - tế bào Reed-Sternberg - và đó
cũngchính làdấu hiệuđặc trưng đểchẩn đoán bệnhHodgkin.
Bệnh Hodgkin là một trong hai nhóm lớn của u lympho ác tính, trong đó có tế bào ReedSternberg là tế bào đặc trưng của bệnh kèm theo nhiều loại tế bào phản ứng như tương bào,
mô bào, đại thực bào, bạch cầu đa nhân ưa toan và lympho bào ở mức độ nhiều hay ít tùy
thuộcvào típmôhọc củabệnh.
Ở Mỹ,năm1988 tỷlệ mắcbệnh Hodgkin là2,8/100.000 dân
14 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1841 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu U lympho ác tính bệnh hodgkin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
86
U LYMPHO ÁC TÍNH
BỆNH HODGKIN
Mục tiêu học tập
1. Mô tả được đặc điểm đại thể của bệnh Hodgkin ở hạch, lách, gan.
2. Mô tả được đặc điểm của tế bào Reed - Sternberg, tính đa hình thái tế bào và các đặc
điểm vi thể chính của 4 típ bệnh Hodgkin.
I. ÐẠI CƯƠNG
Năm 1832, Thomas Hodgkin (người Anh) lần đầu tiên mô tả về lâm sàng 7 trường
hợp bệnh của hạch và lách. Năm 1898, Karl Sternberg (người Ðức) và Dorothy Reed (người
Mỹ) mô tả các đặc điểm của tế bào sau này mang tên của họ - tế bào Reed-Sternberg - và đó
cũng chính là dấu hiệu đặc trưng để chẩn đoán bệnh Hodgkin.
Bệnh Hodgkin là một trong hai nhóm lớn của u lympho ác tính, trong đó có tế bào Reed-
Sternberg là tế bào đặc trưng của bệnh kèm theo nhiều loại tế bào phản ứng như tương bào,
mô bào, đại thực bào, bạch cầu đa nhân ưa toan và lympho bào ở mức độ nhiều hay ít tùy
thuộc vào típ mô học của bệnh.
Ở Mỹ, năm 1988 tỷ lệ mắc bệnh Hodgkin là 2,8/100.000 dân.
II. GIẢI PHẪU BỆNH
1. Ðại thể
Bệnh Hodgkin gặp chủ yếu ở hạch lympho nhưng cũng có thể gặp ở các tạng của hệ
tạo máu-lympho và xâm nhập các tạng khác. Tổn thương không đặc hiệu, thường là những
khối không có giới hạn rõ ràng hoặc là các nốt rải rác.
Diện cắt màu trắng xám hay vàng nhạt, thuần nhất hoặc có hoại tử hoặc có các chấm
chảy máu.
1.1. Hạch lympho
Tổn thương đầu tiên thường thấy ở hạch lympho, hiếm gặp bệnh Hodgkin ngoài hạch. Lúc
đầu là một hay nhiều hạch to, kích thước thay đổi, không dính vào nhau. Sau đó, dính thành
một khối nhiều múi và lan sang các nhóm hạch khác. Các nhóm hạch ngoại biên như hạch cổ,
nách, bẹn ... gặp trong 90% các trường hợp, các hạch sâu như hạch trung thất, sau phúc mạc
gặp trong 50% các trường hợp.
Hình 1. Hạch lympho trong bệnh Hodgkin thể xơ nốt
87
1.2. Lách
Gặp trong 25% các trường hợp. Lách to vừa, thường không quá 400gam. Mặt ngoài
nhẵn, đồng đều hoặc có các nốt lồi trên vỏ lách. Diện cắt có các nốt màu trắng xám, kích
thước từ vài mi-li-mét đến vài cen-ti-mét nổi rõ trên nền đỏ sẫm của lách tạo nên hình ảnh
“lách xúc xích” hay “lách đá hoa cương”.
1.3. Gan
Khoảng 25% các trường hợp Hodgkin có gan to với các nốt to nhỏ không đều, có khi
khó thấy bằng mắt thường.
2. Vi thể
2.1. Tế bào Reed-Sternberg
Là những tế bào ác tính đặc trưng của bệnh Hodgkin, đặc hiệu để chẩn đoán bệnh
Hodgkin.
Tế bào Reed-Sternberg điển hình có kích thước lớn 20-50µm hoặc hơn. Bào tương
rộng, thuần nhất hoặc dạng hạt, ưa toan nhẹ. Nhân lớn. Kích thước thay đổi, màng nhân dày,
chất nhiễm sắc thô vón và tập trung sát màng nhân. Hạt nhân rất to, ưa toan, nằm giữa nhân
và tách biệt với chất nhiễm sắc tạo nên một quầng sáng quanh hạt nhân. Ðôi khi thấy tế bào
hai nhân đối xứng với nhau tạo nên hình ảnh “soi gương” hay “mắt cú”.
Những tế bào lớn, một nhân nhưng nhân không có múi, hạt nhân nổi rõ gọi là tế bào
Hodgkin hoặc tế bào dạng Sternberg.
Nguồn gốc của tế bào Reed-Sternberg và các biến thể của nó là những nguyên bào
lympho phát triển từ các tế bào Th.
Hình 2. Tế bào Reed-Sternberg
2.2. Tính đa hình thái tế bào
Xen lẫn với các tế bào ác tính, mô Hodgkin còn có sự xâm nhập đa dạng các tế bào
khác với tỷ lệ thay đổi như lympho bào nhỏ, nguyên bào lympho, nguyên bào miễn dịch, mô
bào dạng bán liên, đại thực bào, bạch cầu đa nhân ưa toan và tương bào. Thường có xơ hóa ít
hay nhiều thành những dải nhỏ hoặc đám.
2.3. Các típ mô bệnh học của bệnh Hodgkin
Theo phân loại Rye (1966), bệnh Hodgkin được chia làm 4 típ mô bệnh học.
2.3.1. Típ I: Bệnh Hodgkin nhiều lympho bào (lymphocytic predominance type)
Cấu trúc hạch bị xóa do sự tăng sinh mạnh của lympho bào kèm hoặc không kèm mô
bào. Sự tăng sinh có thể lan tỏa hoặc thành nốt không đều. Rất ít tế bào Reed-Sternberg điển
88
hình nhưng xuất hiện các biến thể của tế bào Reed-Sternberg, đó là những tế bào nhỏ hơn tế
bào Reed-Sternberg, nhân có nếp cuộn, nhiều thùy, chất nhiễm sắc có hốc nhỏ, hạt nhân nhỏ
và không rõ gọi là tế bào bắp rang (popcorn cell). Rải rác có thể thấy tương bào, bạch cầu đa
nhân ưa toan. Vỏ hạch ít bị xâm lấn.
Hodgkin típ I gặp trong 5% các trường hợp, 80% ở giai đoạn lâm sàng I, II, thường gặp ở
nam giới trưởng thành, trẻ tuổi. Thời gian sống thêm dài.
Hình 3. Bệnh Hodgkin nhiều lympho bào
2.3.2. Típ II: Bệnh Hodgkin thể xơ nốt (nodular sclerosis type)
Mô hạch bị xâm lấn bởi những nốt tròn hay đa dạng, bao quanh các nốt là những bè
xơ. Các nốt gồm những tương bào, lympho bào, bạch cầu đa nhân ưa toan, các tế bào
Hodgkin và đặc biệt là các tế bào khuyết (lacunar cell) - là một biến thể của tế bào Reed-
Sternberg, có kích thước rất lớn 40-50µm, nhân có nhiều múi, màng nhân mỏng, trong nhân
có nhiều hạt nhân, bào tương rộng và sáng nhưng thường co lại tạo nên một khoảng trống
giữa tế bào và mô dạng lympho xung quanh, tạo nên hình tế bào nằm trong hốc.
Quá trình xơ hóa tăng dần, lúc đầu khu trú quanh các nốt có nhiều tế bào, sau đó có
thể xóa hoàn toàn cấu trúc hạch lympho. Có thể có các ổ hoại tử.
Típ này hay gặp ở nữ giới và có thể gặp trong tất cả các giai đoạn lâm sàng của bệnh,
trong đó 60% ở giai đoạn lâm sàng I, II và khoảng 35% ở giai đoạn lâm sàng III.
Hình 4. Bệnh Hodgkin thể xơ nốt
89
2.3.3. Típ III: Bệnh Hodgkin thể hỗn hợp tế bào (mixed cellularity type)
Hạch lympho có sự xâm nhập đa hình thái, bao gồm lympho bào, mô bào, tương bào,
bạch cầu đa nhân ưa toan và trung tính. Nhiều tế bào Reed-Sternberg điển hình và các tế bào
Hodgkin đơn nhân. Thường thấy các ổ hoại tử và xơ hóa. Tất cả tạo nên hình ảnh hỗn hợp tế
bào.
Ðây là típ hay gặp nhất, nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ giới và gặp trong mọi giai
đoạn lâm sàng của bệnh Hodgkin, gần 50% ở giai đoạn lâm sàng III, IV. Thời gian sống thêm
của bệnh nhân tương đối ngắn. Tiên lượng xấu hơn típ I và típ II.
Hình 5. Bệnh Hodgkin thể hỗn hợp tế bào
2.3.4. Típ IV: Bệnh Hodgkin thể ít lympho bào (lymphocytic depletion type)
Típ này gồm hai loại nhỏ:
- Loại xơ hóa lan tỏa:
Nghèo tế bào đặc biệt là lympho bào. Xơ hóa lan rộng thành khối vô cấu trúc, đặc, ít tế bào, ít
sợi tạo keo. Tế bào Reed-Sternberg nhiều và thường bị co kéo, toan tính mạnh.
Loại này gặp ở giai đoạn cuối của bệnh Hodgkin không được điều trị hoặc sau điều trị
tia.
- Loại liên võng:
Ðặc trưng bởi rất nhiều tế bào Reed-Sternberg có hình dạng kỳ quái.
Típ này ít gặp, khoảng 1-5% các trường hợp, thường gặp ở nam giới, tuổi trung bình
khoảng 50 tuổi, tuổi trẻ hơn gặp ở bệnh nhân AIDS, thường tương ứng với giai đoạn lâm sàng
III và IV, thời gian sống thêm ngắn.
Hình 6. Bệnh Hodgkin ít lympho bào
90
III. LÂM SÀNG
- Hạch to, không đau, thường một bên. Hay gặp ở hạch cổ, nách, bẹn, trung thất.
- Triệu chứng: Sốt, ra mồ hôi, sút cân, thiếu máu, gan lách to.
Các giai đoạn lâm sàng
Bệnh Hodgkin biểu hiện 4 giai đoạn lâm sàng (theo phân loại TNM các u ác tính của
Hiệp hội Quốc tế chống ung thư, Genève 1979)
Giai đoạn Ðịnh nghĩa
I Xâm nhập một vùng hạch duy nhất (I)
Hoặc xâm nhập khu trú ở một tạng hay một vị trí ngoài hạch (IE)
II Xâm nhập 2 vùng hạch trở lên cùng một phía cơ hoành (II)
Hoặc xâm nhập khu trú ở một tạng hay một vị trí ngoài hạch kết hợp với một
hay nhiều vùng hạch, ở một phía cơ hoành (IIE)
III Xâm nhập những vùng hạch ở hai phía cơ hoành (III)
Hoặc kèm theo:
Xâm nhập khu trú ở một tạng hay một vị trí ngoài hạch (IIIE)
Xâm nhập vào lách (IIIS)
Xâm nhập ngoài lách (IIIES)
IV Xâm nhập lan tỏa rải rác vào một hay nhiều tạng hay vị trí ngoài hạch, kèm theo
hoặc không theo xâm nhập hạch
E: ngoài hạch (extra lymphatic)
S: lách (spleen)
Trong bảng phân giai đoạn lâm sàng có ghi thêm chữ B nếu bệnh nhân có một trong
các triệu chứng sau:
- Giảm 10% trọng lượng
- Sốt trên 38oC
- Ra mồ hôi đêm
Ghi chữ A nếu bệnh nhân không có các triệu chứng đó.
Ngày nay với nhiều phương pháp chẩn đoán sớm đặc biệt là xác định típ mô bệnh học và có
phác đồ điều trị phối hợp xạ trị và hóa trị, người ta đã có thể kéo dài thời gian sống thêm của
một số bệnh nhân ở típ I và típ II đến 10 - 15 năm.
91
U LYMPHO ÁC TÍNH KHÔNG HODGKIN
Mục tiêu học tập
1. Mô tả được các đặc điểm đại thể, vi thể và một số phân loại mô bệnh học chính của u
lympho ác tính không Hodgkin.
I. ÐẠI CƯƠNG
U lympho ác tính không Hodgkin chiếm tỷ lệ cao hơn so với bệnh Hodgkin, ở Mỹ
năm 1988 tỷ lệ là 13,8/100.000 dân, gấp khoảng 5 lần bệnh Hodgkin.
Bệnh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ, có xu hướng tăng theo tuổi nhưng mức độ khác
nhau ở mỗi típ bệnh. Ở trẻ em thường gặp các típ có độ ác tính cao như u lympho nguyên bào
lympho và u lympho tế bào nhỏ nhân không khía.
II. PHÂN LOẠI
Khác với bệnh Hodgkin, hiện nay có nhiều bảng phân loại u lympho ác tính không Hodgkin.
Phân loại đầu tiên của Rappaport (1966) dựa vào cấu trúc u (tạo thành nốt hay lan tỏa) và loại
tế bào (lympho bào, mô bào và hỗn hợp tế bào) với các mức độ biệt hóa của tế bào.
Vào những năm 70, xuất hiện phân loại của Lukes và Collins (1974) phân chia các Típ nhỏ
theo 2 dòng tế bào T và B. Sau đó là phân loại của Kiel (1975) sắp xếp các u lympho ác tính
không Hodgkin thành 2 nhóm lớn: độ ác tính thấp và độ ác tính cao.
Ngoài ra, còn có phân loại của Dofman, của Tổ chức Y tế Thế giới, của Anh ...
Năm 1982, Viện Ung thư quốc gia Mỹ đã đưa ra bảng Công thức thực hành (Working
Formulation, WF) dành cho lâm sàng. Bảng này chia u lympho ác tính không Hodgkin thành
3 nhóm lớn có giá trị để tiên lượng bệnh là độ ác tính thấp, độ ác tính trung gian và độ ác tính
cao bao gồm 10 típ mô bệnh học.
Gần đây, một nhóm Quốc tế nghiên cứu u lympho ác tính không Hodgkin bao gồm các nhà
khoa học của nhiều nước đã đưa ra bảng phân loại REAL (1995) dựa trên hình thái học, miễn
dịch di truyền tế bào và sinh học phân tử để xác định các típ u.
Như vậy, phân loại u lympho ác tính không Hodgkin có nhiều đổi mới trong những thập kỷ
và những năm gần đây nhưng rất phức tạp và cho đến nay vẫn còn nhiều điểm chưa thống
nhất. Việc sử dụng phân loại nào là tùy thuộc theo từng khu vực, từng nước và trường phái. Ở
Mỹ và các nước nói tiếng Anh khác sử dụng bảng Công thức thực hành (WF) và phân loại của
Rappaport, ở Châu Âu dùng bảng phân loại Kiel.
Trong phạm vi bài học này, chúng tôi chỉ đề cập đến bảng Công thức thực hành dành cho lâm
sàng vì đây là phân loại tương đối đơn giản, dễ áp dụng và có giá trị trong theo dõi tiên lượng
bệnh.
CÔNG THỨC THỰC HÀNH
Ðộ ác tính thấp
- WF1: u lympho ác tính (ULPA), lympho bào nhỏ
- WF2: ULPA, nang, ưu thế tế bào nhỏ nhân khía
- WF3: ULPA, nang, hỗn hợp tế bào lớn và tế bào nhỏ nhân khía
Ðộ ác tính trung gian
- WF4: ULPA, nang, ưu thế tế bào lớn
- WF5: ULPA, lan tỏa, tế bào nhỏ nhân khía
92
- WF6: ULPA, lan tỏa, hỗn hợp tế bào lớn và nhỏ
- WF7: ULPA, lan tỏa, tế bào lớn
Ðộ ác tính cao
- WF8: ULPA, tế bào lớn, nguyên bào miễn dịch
- WF9: ULPA, nguyên bào lympho
- WF10: ULPA, tế bào nhỏ nhân không khía
Các loại khác
- Loại mô bào thực sự
- U lympho da, tế bào T
- Các loại khác
Hình 1. ULPA, nang, ưu thế tế bào nhỏ nhân khía (WF2) (x 50)
Hình 2. ULPA, nang, ưu thế tế bào nhỏ nhân khía (WF2) (x 400)
93
Hình 3. ULPA, lan toả, hỗn hợp tế bào lớn và tế bào nhỏ (WF6)
Hình 4. ULPA, lan toả, tế bào lớn (WF7)
Hình 5. ULPA, tế bào lớn,nguyên bào miễn dịch (WF8)
94
Hình 6. ULPA, nguyên bào lympho (WF9)
III. GIẢI PHẪU BỆNH
1. Ðại thể
Hạch lympho bao gồm các nhóm hạch ngoại biên và các nhóm hạch sâu thường là nơi
khởi phát của u lympho ác tính không Hodgkin. Hạch to, có thể tạo thành khối lớn có nhiều
thùy, di động hoặc dính vào da và mô quanh hạch. Diện cắt thuần nhất, màu trắng xám, đôi
khi có hoại tử và chảy máu ở một số típ.
2. Vi thể
Dựa vào:
- Cấu trúc nổi trội của mô hạch bị ung thư: dạng nang hay dạng lan tỏa.
- Loại tế bào chiếm ưu thế: tế bào nhỏ (nhân khía hay không khía), tế bào lớn, hỗn hợp tế bào
lớn và tế bào nhỏ, nguyên bào miễn dịch, nguyên bào lympho ...
Phân chia các típ mô bệnh học theo phân loại của bảng Công thức thực hành.
Về vi thể nói chung, khác với bệnh Hodgkin, trong u lympho ác tính không Hodgkin thường
không thấy đặc điểm đa hình thái tế bào.
IV. LÂM SÀNG
Triệu chứng đặc trưng của u lympho ác tính không Hodgkin là các hạch ngoại biên to,
không đau. Có thể đứng riêng lẻ hoặc dính vào nhau thành một khối cố định. Vị trí thường
gặp là hạch cổ (40%), hạch nách (20%) và hạch bẹn. Có thể gặp ở hạch trung thất, hạch sau
phúc mạc.
U lympho ác tính không Hodgkin ngoài hạch thường gặp hơn so với bệnh Hodgkin
như u lympho niêm mạc đường tiêu hóa, a-mi-dan, tủy xương, tuyến vú, lách, gan, da ...
Về tiên lượng tỷ lệ sống 10 năm tương ứng của 3 nhóm độ ác tính thấp, trung gian và
cao là 45%, 26% và 23%.
95
BỆNH TUYẾN GIÁP
Mục tiêu học tập
1- Trình bày được mô học và sự tổng hợp hormon giáp
2 - Mô tả và phân tích được bệnh bướu giáp đơn thuần và bệnh bướu giáp cường giáp
3 - Mô tả được đặc điểm vi thể của bướu giáp đơn thuần và bệnh Basedow
I. ĐẠI CƯƠNG
Bệnh lý tuyến giáp đứng hàng đầu trong các bệnh về nội tiết. Theo ước tính, trên thế giới có
khoảng 200 triệu người mang tuyến giáp to, cổ phình to rất dễ nhận biết và ở Việt Nam cũng
chiếm xấp xỉ 2 triệu người (Nguyễn Vượng và CS).
Là bệnh nằm ngay trước cổ nên nhân dân quen gọi là “bướu cổ”. Đa số bệnh bướu cổ thuộc
loại bình năng giáp (bướu cổ đơn thuần, bướu cổ địa phương - goitre simple) và bướu cổ ưu
năng giáp (bệnh Basedow-bệnh Grave). Ngoài ra còn gặp một số bệnh lý của tuyến giáp như
bướu giáp nhược năng, viêm tuyến giáp, u tuyến và ung thư tuyến giáp.
II. NHẮC LẠI MÔ HỌC VÀ QUÁ TRÌNH TỒNG HỢP HORMONE GIÁP
1. Về mô học
- Tuyến giáp gồm 2 thùy nằm ở đoạn trên của cổ và dưới thanh quản. Trọng lượng khoảng
30-40 gram, được phủ bên ngoài bởi một lớp vỏ xơ và ngăn cách với nhu mô giáp bên trong
bởi mô liên kết thưa (do vậy rất dễ bóc tách khi phẫu thuật).
- Tuyến giáp là tuyến nội tiết kiểu túi gồm những nang tuyến được bao quanh bởi mạng lưới
mao mạch phong phú. Lòng nang chứa một chất keo mà bản chất là protein, đó là
thyroglobulin có trọng lượng phân tử 660.000, do các tế bào lót quanh nang của tuyến giáp
tạo ra. Các tế bào nang tạo nên biểu mô tuyến của tuyến giáp. Chúng có hình vuông hoặc dẹt
khi nghỉ hoạt động hoặc hình trụ khi đang hoạt động chế tiết.
Hình 1: Cấu tạo vi thể tuyến giáp và cận giáp
95
96
2. Quá trình tổng hợp hormone giáp
Hormone giáp do tế bào tuyến giáp tạo ra là thyroxin (T4 , Tetra- iodothyronin) bao gồm 2 cơ
chất chính là iod và acid amin là tyrozin. Thành phần iod có nhiều nhất ở rong tảo và động vật
ở biển, lượng iod này khi ăn vào đều bị khử thành các iodua (K, Na) và được ruột hấp thụ để
đưa đến tuyến giáp.
Sự thu nhập iod tại tuyến giáp dễ bị ngăn cản bởi các anion thiocyanate (TCN) và Peclorat
(ClO4). Do vậy, ăn thức ăn cải bắp chứa nhiều thiocyanate dễ gây bướu cổ. Ngược lại, sự gắn
iod được kích thích bởi TSH (Thyroid stimulating hormon) của tuyến yên.
Giai đoạn tiếp theo là oxy hóa thành các iod hoạt hóa (nhờ xúc tác bởi peroxydaza, TSH). Sau
đo,ï gắn iod đã được hoạt hóa vào các vị trí nhân vòng của tyrozin để tổng hợp tạo nên T3 và
T4.
3,5,3/ Tri iodothyronin (T3) 3,5,3/,5/ Tetra iodothyronin (T4)
T3 và T4 chính là các hormone giáp, sau khi tổng hợp sẽ được đưa vào lòng nang và gắn với
thyroglobulin dưới dạng dự trữ.
Khi cơ thể cần sử dụng chúng sẽ nhờ vào men thủy phân (cathepsin, TSH) để tách T3, T4 ra
và được vận chuyển qua màng tế bào để đưa vào máu.
III. MỘT SỐ BỆNH TUYẾN GIÁP THƯỜNG GẶP
1. Bướu cổ đơn thuần
- Đây là loại bệnh thường gặp nhất, đặc biệt là nữ giới. Bệnh nhân không có các rối loạn
chức năng tuyến giáp (do vậy còn gọi là bướu cổ đơn thuần).
- Có 3 nhóm nguyên nhân chính gây bệnh:
+ Thường do thiếu iod trong thực phẩm, đặc biệt là những dân cư sống ở vùng núi cao (khi đó
bệnh còn có tên gọi là bướu cổ địa phương).
+ Do rối loạn thần kinh nội tiết ở trẻ gái dậy thì, phụ nữ mang thai và tuổi mãn kinh.
+ Do dùng quá nhiều thực phẩm có chứa thyocyanate (bắp cải, củ cải, su hào) và những chất
có tác dụng chống nội tiết tố tuyến giáp hoặc do bệnh nhân dùng thuốc có chứa thyocyanate,
salicylate, thiouracil.
Có 3 loại bướu giáp đơn thuần:
1.1. Bướu giáp lan tỏa
Đây là giai đoạn đầu của bướu giáp đơn thuần (từ vài tháng đến vài năm). Tuyến giáp phản
ứng (do thiếu iod) bởi sự kích thích của TSH, thể hiện bằng sự vừa quá sản (tăng số lượng các
nang tuyến) vừa phì đại (tăng thể tích các nang). Chính sự quá sản và phì đại này làm cho
tuyến giáp to ra đều và lan tỏa cả 2 bên, có khi tuyến giáp nặng 1000gram, song nhìn chung
hình thái của tổn thương vẫn thuần nhất, mật độ mềm, diện cắt nhầy, bóng, do có nhiều chất
keo (do vậy còn gọi là bướu giáp keo). Hoặc mật độ chắc, diện cắt không nhầy và giống mô
giáp bình thường (nên gọi là bướu giáp nhu mô).
96
I
O O
I
I
C H 2 C H C O O H
N H 2
I
O O
I
I
C H 2 C H C O O H
N H 2I
97
Về vi thể, cấu trúc tuyến giáp gồm những túi tuyến giãn rộng, lòng chứa nhiều chất keo đặc,
bên ngoài được lót bởi các tế bào biểu mô vuông hoặc dẹt.
Hinh 2-3: Tổn thương vi thể của bướu keo tuyến giáp
1.2. Bướu giáp hòn (cục, nhân)
Bệnh có thể gặp dưới dạng lâm sàng là một cục, nhưng phần lớn thường gặp là thểì nhiều
cục. Đây là thể bệnh biểu hiện giai đoạn sau của bướu giáp đơn thuần.
Các tổn thương quá sản và phì đại nang giáp ở giai đoạn đầu dần dần đi kèm với hiện tượng
thoái hóa, xen kẽ là sự tái tạo, phì đại làm cho tổn thương vi thể thường không thuần nhất mà
trở nên đa dạng. Bên cạnh các nang tuyến nhỏ tái tạo với các biểu mô quá sản lại thấy xuất
hiện nhiều nang tuyến dãn lớn chứa đầy chất keo làm cho mô tuyến giáp có nhiều cục.
Mô đệm liên kết bao quanh các nang giáp cũng biến đổi, nhiều mao mạch không đều, lòng
mao mạch hẹp, dẫn đến thiếu máu cục bộ, có khi có hiện tượng chảy máu và vôi hóa. Chính
sự chảy máu vào mô kẽ tạo nên các u nang giả chảy máu và không có biểu mô bao quanh
nang mà chỉ có một lớp mỏng sợi tạo keo.
Bệnh kéo dài gồm nhiều đợt quá sản, thoái hóa, tái tạo, chia cắt tuyến giáp thành nhiều cục
và rất khó khăn đáp ứng trong điều trị nội khoa.
Hình 4: Đại thể của bướu giáp lan tỏa và bướu giáp hòn (cục)
97
98
1.3. Nang giáp
Hầu hết các nang giáp là do hiện tượng thoái hóa hốc của một cục trong bệnh bướu giáp hòn.
Đôi khi từ một túi tuyến bình thường bị xuất huyết hoặc thoái hóa tạo nang (nang giáp giã).
Nang giáp có thể nhỏ , đường kính dưới 1cm hoặc to với đường kính trên 6cm. Trong nang
chứa chất keo giáp hoặc dịch đỏ của máu cũ hoặc dịch nâu sền sệt. Lớp bao nang được lót bởi
biểu mô trụ (ở thấp) hoặc biểu mô chuyển sản gai (ở cao).
2. Bệnh Basedow
Bệnh Basedow còn gọi là bệnh Braves hoặc bướu giáp lồi mắt. Bệnh do quá sản nguyên phát
của mô tuyến giáp. Bệnh nhân có triệu chứng của cường giáp trạng, lồi mắt và tuyến giáp phì
đại lan tỏa, kích thước thường không to quá, trung bình nặng khoảng 50-60gr. Bệnh có suất
độ cao, đứng thứ hai sau bướu giáp đơn thuần, thường gặp ở phụ nữ lứa tuổi 30-40, tỉ lệ nữ/
nam là 5/1.
Bệnh có liên quan đến cơ chế tự miễn vì thấy trong huyết thanh bệnh nhân có nhiều globulin
miễn dịch chống giáp gây những rối loạn tuyến cận giáp và tuyến yên.
Hình 5: Tổn thương đại thể và vi thể của bệnh Basedow
Hình 6-7: Tổn thương vi thể của bệnh Basedow
98
99
Tuyến giáp to đều lan tỏa, diện cắt nhiều thùy, màu đỏ nâu, mật độ chắc, thuần nhất như thịt
nhiều máu.
Về vi thể, có quá sản mạnh lan tỏa các nang với biểu mô cao hình trụ, có khi làm thành các
nhú lồi vào trong lòng nang, lòng nang chứa chất keo loãng và có nhiều hốc không bào ở
ngoại vi tiếp xúc ở cực ngọn của các tế bào biểu mô. Hệ thống lưới mao mạch phong phú,
khoảng kẽ xâm nhập nhiều lympho bào có khi thành đám tạo nang lympho. Một đôi khi thấy
tăng sinh xơ chia cắt các túi tuyến tạo thành các tiểu thùy.
Bệnh biểu hiện trên lâm sàng điển hình là: lồi mắt, tim đập nhanh, bệnh nhân dễ hồi hộp cáu
gắt, tăng huyết áp và tăng chuyển hóa cơ bản, tay run, gầy rút rõ. Ngoài ra, bệnh nhân có thể
bị teo cơ và xâm nhập mỡ, quá sản mô lympho toàn thân, gan bị thoái hóa rõ, mất canxi ở
xương.
99
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phau_benh_hoc_bai_13_14_3337.pdf