Đặt vấn đề: Suy yếu là một hội chứng lão hóa thường gặp, làm gia tăng các kết cục lâm sàng bất lợi ở người cao tuổi. Chính vì vậy, nhận diện suy yếu quan trọng trong quá trình chăm sóc và điều trị người cao tuổi. Trong các công cụ đánh giá suy yếu thì tiêu chuẩn Fried được sử dụng nhiều nhất và được xem là tiêu chuẩn vàng trong đánh giá suy yếu. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo Fried và tỷ lệ các tiêu chí suy yếu thành phần ở những bệnh nhân cao tuổi đến khám tại phòng khám lão khoa bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 484 bệnh nhân cao tuổi (≥60 tuổi) điều trị tại phòng khám lão khoa bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 06 năm 2020. Suy yếu được định nghĩa theo tiêu chuẩn Fried. Kết quả: Nghiên cứu thu thập được 484 người cao tuổi, tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried: 29,75%, tiền suy yếu: 48,56%, khỏe mạnh: 21,69%. Tỷ lệ các tiêu chí thành phần: yếu cơ: 75,41%, chậm chạp: 34,5%, kiệt sức 32,44%, sụt cân 22,31%, hoạt động năng lượng thấp 21,69% Kết luận: Tỷ lệ suy yếu tương đối phổ biến ở những bệnh nhân cao tuổi tại phòng khám lão khoa bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Trong các tiêu chí thành phần thì yếu cơ chiếm tỷ lệ cao nhất, mức hoạt động năng lượng thấp chiếm tỷ lệ thấp nhất
7 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 21/05/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn fried tại Phòng khám Lão khoa Bệnh viện Nhân dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
Chuyên Đề Nội Khoa - Lão Khoa 161
TỶ LỆ SUY YẾU THEO TIÊU CHUẨN FRIED TẠI PHÒNG KHÁM LÃO KHOA
BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Nguyễn Thanh Huân1, Nguyễn Hữu Ấn2, Nguyễn Thanh Vy1, Trần Minh Giao3, Thân Hà Ngọc Thể1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Suy yếu là một hội chứng lão hóa thường gặp, làm gia tăng các kết cục lâm sàng bất lợi ở người
cao tuổi. Chính vì vậy, nhận diện suy yếu quan trọng trong quá trình chăm sóc và điều trị người cao tuổi. Trong
các công cụ đánh giá suy yếu thì tiêu chuẩn Fried được sử dụng nhiều nhất và được xem là tiêu chuẩn vàng
trong đánh giá suy yếu.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo Fried và tỷ lệ các tiêu chí suy yếu thành phần ở những bệnh nhân cao
tuổi đến khám tại phòng khám lão khoa bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 484 bệnh nhân cao
tuổi (≥60 tuổi) điều trị tại phòng khám lão khoa bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 12 năm 2019 đến tháng
06 năm 2020. Suy yếu được định nghĩa theo tiêu chuẩn Fried.
Kết quả: Nghiên cứu thu thập được 484 người cao tuổi, tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried: 29,75%, tiền
suy yếu: 48,56%, khỏe mạnh: 21,69%. Tỷ lệ các tiêu chí thành phần: yếu cơ: 75,41%, chậm chạp: 34,5%, kiệt sức
32,44%, sụt cân 22,31%, hoạt động năng lượng thấp 21,69%
Kết luận: Tỷ lệ suy yếu tương đối phổ biến ở những bệnh nhân cao tuổi tại phòng khám lão khoa bệnh viện
Nhân Dân Gia Định. Trong các tiêu chí thành phần thì yếu cơ chiếm tỷ lệ cao nhất, mức hoạt động năng lượng
thấp chiếm tỷ lệ thấp nhất.
Từ khóa: suy yếu, phòng khám lão khoa, người cao tuổi
ABSTRACT
PREVALENCE OF FRAILTY BASED ON FRIED’S CRITERIA
AT THE GERIATRIC CLINIC OF NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Nguyen Thanh Huan, Nguyen Huu An, Nguyen Thanh Vy, Tran Minh Giao, Than Ha Ngoc The
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 161 - 167
Background: Frailty is a common geriatric syndrome, increasing the adverse clinical outcomes in
elderly individuals. Frailty discernment, therefore, has a vital part in the care for and management of this
population. Among other frailty evaluating tools, Fried’s criteria is the most used and serves as the gold
standard in frailty assessment.
Objective: Identify the proportion of frailty based on Fried’s and the percentage of each component criterium
in the elderly at the geriatric clinic of Nhan Dan Gia Dinh Hospital.
Methods: This cross-sectional study was conducted with the participation of 484 elder patients (≥60 years of
age) at the geriatric clinic of Nhan Dan Gia Dinh hospital from December 2010 to June 2020. Frailty was defined
by Fried’s criteria.
Results: Out of 484 elderly people enrolled to our study, the percentage of frailty, pre-frailty and robust were
29.75%, 48.56%, and 21.69% respectively. The proportions of each criterium included: 75.41% for weakness,
34.5% for slow gait, 22.31% for exhaustion, and 21.69% for low physical activity.
1Bộ môn Lão Khoa – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Bệnh viện Chợ Rẫy
3Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thanh Huân ĐT: 0909097849 Email: cardiohuan@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa – Lão Khoa 162
Conclusion: Frailty is relatively frequent in the elderly visiting the geriatric clinic of Nhan Dan Gia Dinh
hospital. Of the components of Fried’s criteria, weakness accounted for the highest proportion while the number
of physical activity was the smallest.
Keywords: frailty, geriatric clinic, the elderly
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ người cao tuổi (NCT) tăng nhanh trong
những năm gần đây. NCT (≥60 tuổi) trên thế giới
tăng từ 382 triệu vào năm 1980 lên đến 962 triệu
vào năm 2017 và ước đoán sẽ đạt 2,1 tỷ người
vào năm 2050(1). Đa bệnh – đa thuốc và sự xuất
hiện hội chứng lão hóa là một trong những khó
khăn trong công tác chăm sóc và điều trị sức
khỏe NCT(2,3). Suy yếu là một yếu tố thường gặp
của hội chứng lão hóa. Tỷ lệ suy yếu trong cộng
đồng dao động từ 4 - 59%, còn trong viện dưỡng
lão dao động từ 19 - 76%(4). Nhận thức tầm quan
trọng của suy yếu, từ khi đưa ra khái niệm suy
yếu, các nhà lão khoa và hội lão khoa trên thế
giới đã nghiên cứu nhiều công cụ đánh giá như:
thang điểm Fried, chỉ số suy yếu (FI: Frailty
Index), bộ câu hỏi PRISMA-7, tốc độ đi(5). Trong
các công cụ đánh giá thì thang điểm Fried được
xem là tiêu chuẩn vàng, là công cụ được sử dụng
trong nghiên cứu dịch tễ học và tiên lượng được
kết cục lâm sàng: tái nhập viện, tử vong, té ngã,
gãy xương(6,7,8).
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây,
vấn đề suy yếu ở người cao tuổi đã được quan
tâm nhiều hơn. Năm 2017, tác giả Nguyễn Văn
Thình khảo sát NCT tại quận 8 thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy tỷ lệ suy yếu ở cộng đồng là
25,4%(9). Tác giả Nguyễn Thị Minh Hải và Hồ
Thị Kim Thanh khảo sát trên những bệnh nhân
cao tuổi mắc đái tháo đường tip 2 điều trị ngoại
trú tại Viện Lão Khoa Trung Ương thì tỷ lệ suy
yếu là 30,39%(10). Già hóa dân số làm gia tăng số
lượng bệnh nhân cao tuổi đến khám và điều trị
tại các phòng khám lão khoa (PKLK) nên vấn đề
quan trọng cần xác định tỷ lệ suy yếu.
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried
và tỷ lệ các tiêu chí thành phần ở những bệnh
nhân cao tuổi đến khám tại phòng khám lão
khoa bệnh viện (BV) Nhân Dân Gia Định.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
NCT (≥60 tuổi) đến khám và điều trị ngoại
trú tại phòng khám Lão khoa (PKLK) BV Nhân
Dân Gia Định từ tháng 12/2019 – 06/2020.
Đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu. Có
khả năng giao tiếp, nghe và hiểu tiếng Việt.
Suy giảm nhận thức, sa sút trí tuệ mức độ nặng.
Tiêu chuẩn loại ra
Không có khả năng đi lại, phải di chuyển
bằng xe lăn, chấn thương, phẫu thuật chi dưới
trong vòng 3 tháng trước.
Tiền sử phẫu thuật hoặc chấn thương tay
trong vòng 3 tháng trước.
Tiền sử phẫu thuật đục thủy tinh thể hoặc
võng mạc trong vòng 6 tuần trước.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mô tả.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức ước tính
một tỷ lệ:
Trong đó:
α là xác suất sai lầm loại I, chọn α=0,05;
d là sai số ước tính, chọn d=0,05;
p là tỷ lệ ước tính.
Vì cho đến thời điểm hiện tại chúng tôi chưa
có dữ liệu về tỷ lệ suy yếu tại PKLK nên chọn
p=0,3039 theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh
Hải trên đối tượng bệnh nhân đái tháo đường
tip 2 cao tuổi tại phòng khám ngoại trú bệnh
viện Lão khoa Trung Ương(10).
Từ đó tính được cỡ mẫu tối thiểu là 326 bệnh
nhân NCT tại PKLK.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
Chuyên Đề Nội Khoa - Lão Khoa 163
Thu thập dữ liệu
Chúng tôi chọn mẫu thuận tiện không xác
suất. Bệnh nhân được giải thích và mời tham gia
nghiên cứu. Chúng tôi sẽ tiến hành thu thập các
thông tin chung, sau đó tiến hành thu thập các
tiêu chí đánh giá suy yếu theo thang điểm Fried.
Sau đó sẽ thu thập các thông tin về tiền sử các
bệnh lý liên quan.
Thang điểm đánh giá suy yếu theo Fried
gồm 5 tiêu chí gồm(7):
(1) Sụt cân không chủ ý 4,5 kg hoặc giảm 5%
trọng lượng cơ thể so với năm trước.
(2) Tình trạng yếu cơ: cơ lực tay thấp hơn so
với mức cơ bản (đã điều chỉnh theo giới và chỉ số
khối cơ thể). Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
máy đo sức cơ Jamar@5030JI Hand
Dynamometer.
(3) Kiệt sức (Sức bền và năng lượng kém): Tự
báo cáo về tình trạng kiệt sức, xác định bằng hai
câu hỏi trong thang điểm tự báo cáo trầm cảm
CES–D (Center for Epidemiologic Studies
Depression Scale): Trong tuần qua Ông/bà có
cảm thấy mọi việc ông/bà làm là một sự gắng
sức? và Trong tuần qua Ông/bà không thể đi lại?
(4) Sự chậm chạp: nhỏ hơn mức cơ bản đã
được điều chỉnh theo giới tính và chiều cao
đứng, dựa trên thời gian đi bộ 4,57m. Bệnh nhân
được hướng dẫn đi quãng đường 4,57m ở hành
lang PKLK với tốc độ bình thường, chúng tôi sẽ
ghi lại tổng thời gian NCT đi quãng đường này.
(5) Mức hoạt động thể lực thấp: Tổng số
kilocalo tiêu hao trong mỗi tuần được tính
toán dựa trên bộ câu hỏi các 18 hoạt động
trong tuần qua.
Suy yếu được định nghĩa khi có từ ≥ 3 tiêu
chí, tiền suy yếu khi có 1-2 tiêu chí, khỏe mạnh
khi không có tiêu chí nào(7).
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm Stata
13.0. Các biến nhị giá, danh định, thứ tự được
trình bày dưới dạng tần suất và tỷ lệ. Các biến
liên tục được trình bày dưới dạng trung bình ±
độ lệch chuẩn hoặc trung vị và khoảng tứ vị.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại
học Y Dược TP. HCM, số 21/2019/BVTN-HĐĐĐ,
ngày 14/11/2019.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm dân số nghiên cứu (n=484)
Đặc điểm Tần số Tỉ lệ %
Tuổi
73,05 ± 7,99 (TB ± ĐLC)
(60 – 93)
Nhóm tuổi
60 – 69 tuổi 187 38,64
70 – 79 tuổi 181 37,4
≥ 80 tuổi 116 23,96
Giới
Nam 178 36,78
Nữ 306 63,22
Tình trạng
hôn nhân
Còn đủ vợ/chồng 275 56,82
Góa 168 34,71
Độc thân 59 5,99
Ly dị 12 2,48
Trình độ học
vấn
Không biết chữ 16 3,31
Biết đọc, biết viết 109 22,52
Học hết cấp I 89 18,39
Học hết cấp II 79 16,32
Học hết cấp III 112 23,14
Trung cấp 2 0,41
Cao đẳng 12 2,48
Đại học 63 13,02
Sau đại học 2 0,41
Hoàn cảnh gia
đình
Sống với gia đình 448 92,56
Sống một mình 25 5,17
Khác 11 2,27
Hoạt động
chức năng
ADL
Độc lập 432 89,26
Phụ thuộc 52 10,74
Hoạt động
chức năng
IADL
Độc lập 318 65,7
Phụ thuộc 166 34,3
Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu
tương đối trẻ, nhóm tuổi từ 60 – 69 chiếm cao
nhất, nữ giới chiếm ưu thế. Đa số những NCT
trong nghiên cứu vẫn còn đủ vợ/chồng, trình
độc học vấn học hết cấp III chiếm cao nhất. Hầu
hết vẫn còn sống chung với gia đình. Phần lớn
người cao tuổi trong nghiên cứu còn độc lập về
hoạt động ADL, tỷ lệ độc lập hoạt động IADL
chiếm tỷ lệ cao.
Tỷ lệ suy yếu theo Fried
Tỷ lệ suy yếu theo tiêu chí Fried chiếm tỷ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa – Lão Khoa 164
lệ tương đối cao, tỷ lệ khỏe mạnh chiếm tỷ lệ
thấp nhất (Hình 1).
Tỷ lệ suy yếu theo từng tiêu chí Fried
Trong các tiêu chí thành phần của suy yếu
theo tiêu chuẩn Fried thì yếu cơ là thường gặp
nhất, tiếp theo chậm chạp thông qua test đi bộ
4,57 m. Kiệt sức và mức hoạt động năm lượng
thấp tương đối phổ biến. Mức hoạt động năng
lượng thấp ít gặp nhất (Hình 2).
Hình 1: Tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried (n=484)
Hình 2: Đặc điểm các tiêu chí thành phần suy yếu theo tiêu chuẩn của Fried (n=484)
BÀN LUẬN
Tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried
Nghiên cứu của chúng tôi áp dụng tiêu
chuẩn suy yếu theo Fried nguyên gốc, không
hiệu chỉnh tiêu chí nào, tốc độ đi dựa vào thời
gian đi quãng đường 4,57m, yếu cơ được xác
định dựa vào lực bóp cơ tay, giới và BMI. Máy
đo sức cơ trong nghiên cứu của chúng tôi là máy
Jamar@ 5030 JI Hand Dynamometer tương đồng
với một số nghiên cứu về suy yếu tại Việt Nam
như của tác giả Vũ Thị Thanh Huyền, Nguyễn
Văn Thình và một số nghiên cứu trên thế
giới(9,11,12).
Kết quả tỷ lệ suy yếu theo thang điểm Fried
được trình bày ở biểu đồ 1, theo đó tỷ lệ suy yếu
là 29,75%. Tỷ lệ này có sự khác biệt với một số
nghiên cứu suy yếu trong nước.
Bảng 2: So sánh tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried với nghiên cứu trong nước
Tác giả Đối tượng Tỷ lệ (%)
Nguyễn Văn Thình (2018)
(9)
NCT cộng đồng quận 8, TP HCM 25,4
Nguyễn Thị Minh Hải (2017)
(10)
NCT mắc đái tháo đường tip 2 ngoại trú, Viện Lão Khoa Trung Ương 30,39
Vũ Thị Thanh Huyền
(11)
NCT nội trú, Viện Lão Khoa Trung Ương 35,4
Nguyen AT (2019)
(13)
NCT cộng đồng huyện Sóc Sơn, Hà Nội 21,7
Huỳnh Trung Quốc Hiếu (2018)
(14)
NCT có bệnh vành mạn, BV Thống Nhất 54,92
Nguyễn Vạn Thiện (2020)
(15)
NCT trải qua phẫu thuật, BV ĐHYD TP HCM 18,5
Tamura Y (2018)
(16)
323 NCT ≥ 75 tuổi, phòng khám, Nhật Bản 24,1
Kim H (2014)
(17)
NCT ≥ 65 tuổi, phòng khám, Hoa Kỳ 34
Tavassoli N (2014)
(18)
1082 NCT ≥ 65 tuổi, phòng khám, Pháp 54,5
Pritchard JM (2017)
(19)
120 NCT ≥ 65 tuổi, phòng khám Cannada 35
Chúng tôi NCT điều trị ngoại trú PKLK BV Nhân Dân Gia Định 29,75
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
Chuyên Đề Nội Khoa - Lão Khoa 165
Tỷ lệ suy yếu tùy thuộc vào công cụ sử dụng
và đối tượng dân số được nghiên cứu. Cho đến
thời điểm hiện tại ở Việt Nam, tỷ lệ suy yếu tại
PKLK chưa được nghiên cứu, chỉ có công trình
của Nguyễn Thị Minh Hải khảo sát tỷ lệ suy yếu
ở những NCT đái tháo đường tip 2 thì tỷ lệ suy
yếu theo Fried ở những NCT đái tháo đường tip
2 điều trị ngoại trú là 30,39%, tỷ lệ này tương
đương với nghiên cứu của chúng tôi(10). Có thể
giải thích do cùng đặc điểm thu thập mẫu là
phòng khám ngoại trú của những BN cao tuổi.
Tỷ lệ suy yếu trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Văn Thình thực
hiện tại quận 8 TP. HCM (25,4%) và Nguyen AT
thực hiện tại huyện Sóc Sơn Hà Nội (21,7%),
điều này được lý giải do 2 tác giả này thu thập
mẫu tại cộng đồng nên số lượng NCT còn khỏe,
ít bệnh lý đồng mắc, tỷ lệ NCT phụ thuộc ADL
còn thấp nên dẫn đến tỷ lệ suy yếu thấp, còn
chúng tôi thu thập tại phòng khám nên NCT có
nhiều bệnh lý hơn, tỷ lệ phụ thuộc các hoạt động
ADL cũng cao hơn góp phần làm cho tỷ lệ suy
yếu ở PKLK cao hơn trong cộng đồng(9,13). Tỷ lệ
suy yếu trong nghiên cứu chúng tôi thấp hơn
nghiên cứu của tác giả Huỳnh Trung Quốc Hiếu
và Vũ Thị Thanh Huyền vì tác giả Huỳnh Trung
Quốc Hiếu thu thập mẫu ở NCT mắc bệnh động
mạch vành mạn điều trị nội trú tại Trung Tâm
tim mạch BV Thống Nhất (54,92%), tương tự tác
giả Vũ Thị Thanh Huyền khảo sát trên những
NCT nội trú tại Viện Lão khoa Trung Ương
(35,4%), dân số nghiên cứu có tuổi trung bình
cao hơn, nhiều bệnh lý hơn dân số nghiên cứu
của chúng tôi(11,14). Tác giả Nguyễn Vạn Thiện
cũng thực hiện trên đối tượng NCT nội trú,
nhưng tỷ lệ suy yếu trong nghiên cứu chúng tôi
cao hơn, điều này có thể lý giải vì nghiên cứu
của tác giả này chỉ thu nhận những NCT được
phẫu thuật tiêu hóa chương trình, đã loại đi
những NCT cao tuổi nhiều bệnh lý nền, sức
khỏe kém mà các phẫu thuật viên đánh giá
không chịu nổi cuộc phẫu thuật và tiêu chí mức
năng lượng hoạt động và yếu cơ của chúng tôi
và tác giả Nguyễn Vạn Thiện khác nhau(15).
Tỷ lệ suy yếu trong nghiên cứu của chúng tôi
cao hơn tỷ lệ suy yếu của tác giả Tamura Y thực
hiện tại phòng khám ngoại trú ở Nhật Bản
(24,1%)(16). Tỷ lệ suy yếu của chúng tôi thấp hơn
các nghiên cứu của Kim H thực hiện tại Hoa Kỳ
(34%), Tavassoli N thực hiện tại Pháp (54,5%),
Pritchard JM thực hiện tại Canada (35%)(17,18,19).
Mặc dù cùng thực hiện tại phòng khám và cùng
sử dụng tiêu chí đánh giá suy yếu theo Fried,
nhưng tỷ lệ suy yếu tại phòng khám có sự khác
biệt, điều này có thể được giải thích do đối
tượng dân số nghiên cứu có sự khác biệt về độ
tuổi, tuổi trung bình trong nghiên cứu của
Pritchard JM là 80,6, của Kim H là 83,7, còn của
Tavassoli N là 82,9 trong khi đó tuổi trung bình
trong dân số nghiên cứu của chúng tôi chỉ là
73,05(17,18,19). Chính vì vậy tỷ lệ suy yếu trong
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các nghiên
cứu của các tác giả trên. Đồng thời, suy yếu còn
tùy thuộc vào mức độ già hóa dân số cũng như
ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế văn hóa xã
hội giữa các quốc gia. Trong một bài tổng quan,
năm 2015 tác giả Nguyen TN thì tỷ lệ suy yếu ở
những NCT ngoại trú tại các nước đang phát
triển dao động từ 27,8 – 71,3%(20). Chính vì vậy,
tỷ lệ suy yếu theo tiêu chuẩn Fried ở những BN
cao tuổi điều trị ngoại trú trong nghiên cứu
chúng tôi là tương đồng và phù hợp với tỷ lệ suy
yếu trên thế giới.
Tỷ lệ suy yếu theo từng tiêu chí của Fried
Trong nghiên cứu của chúng tôi yếu cơ
chiếm tỷ lệ cao nhất (75,41%), tiếp theo sau đó là
tiêu chí chậm chạp (34,5%), sụt cân và mức hoạt
động năng lượng thấp là 2 tiêu chí có tỷ lệ thấp
nhất. Tiêu chí yếu cơ chiếm tỷ lệ cao nhất có thể
giải thích do nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
thang điểm Fried nguyên bản, không hiệu chỉnh
các điểm cắt nên khi áp dụng vô đối tượng NCT
Việt Nam có đặc điểm nhân trắc học khác với
người Mỹ nên yếu cơ chiếm tỷ lệ cao. Kết quả
này tương tự với kết quả của Nguyễn Văn Thình
thực hiện trên NCT tại quận 8, TP HCM (76,8%)
và Huỳnh Trung Quốc Hiếu thực hiện trên NCT
có bệnh mạch vành mạn tại BV Thống Nhất TP
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa – Lão Khoa 166
HCM (74,58%) vì cả 2 tác giả này sử dụng tiêu
chuẩn Fried nguyên bản(9,14). Có sự khác biệt với
nghiên cứu của Vũ Thị Thanh Huyền thực hiện
trên NCT cao tuổi nội trú tại Viện Lão Khoa
Trung Ương, tỷ lệ yếu cơ chỉ chiếm 24,9%, điều
này có thể giải thích trong nghiên cứu này tác
giả đã hiệu chỉnh sức cơ theo BMI và giới khác
so với tiêu chí Fried nguyên bản(11).
Tỷ lệ yếu cơ chiếm tỷ lệ cao trong các tiêu chí
thành phần suy yếu cũng tương đồng với
nghiên cứu của tác giả Tavassoli N thực hiện
trên NCT tại phòng khám tại Pháp thì tỷ lệ yếu
cơ cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (66,6%), trong
nghiên cứu của Tamura Y thực hiện tại phòng
khám ngoại trú tại Nhật Bản thì tỷ lệ yếu cơ
cũng chiếm tỷ lệ cao nhất (49,5%)(18). Nhìn chung
các nghiên cứu trong nước và một số nghiên cứu
tại phòng khám ngoại trú ở nước ngoài thì tỷ lệ
yếu cơ chiếm tỷ lệ cao trong các tiêu chí thành
phần suy yếu Fried, điều này có thể lý giải do cơ
chế sinh lý bệnh của suy yếu có nhiều yếu tố tác
động làm giảm sức cơ như: bệnh lý đồng mắc,
suy dinh dưỡng, giảm vận động, thoái cơ, viêm
mạn tính(21). Ngoài ra, tác giả Fried JW trong
nghiên cứu Cardiovascular Health Study sử
dụng điểm cắt yếu cơ dựa vào sức cơ thấp hơn
bách phân vị thứ 20 trong cộng đồng của dân số
nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu là người
Mỹ có đặc điểm nhân trắc học khác nên khi áp
dụng tiêu chuẩn Fried này vào các đối tượng
dân số khác thì tỷ lệ yếu cơ sẽ thay đổi, đặc biệt
ở đối tượng người Việt Nam thường BMI thấp
nên sức cơ thấp dẫn đến tỷ lệ yếu cơ trong
nghiên cứu suy yếu tương đối cao.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ suy yếu tương đối phổ biến ở những
bệnh nhân cao tuổi tại phòng khám lão khoa
bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Trong các tiêu
chí thành phần thì yếu cơ chiếm tỷ lệ cao nhất,
mức hoạt động năng lượng thấp chiếm tỷ lệ
thấp nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. United Nations, Department of Economic and Social Affairs
(2017). World Population Ageing 2017, Highlights
(ST/ESA/SER.A/397).
2. Beard JR, Officer A, de Carvalho IA, et al (2016). The World
report on ageing and health: a policy framework for healthy
ageing. Lancet, 387(10033):2145-2154.
3. Ha NT, Le NH, Khanal V, et al (2015). Multimorbidity and its
social determinants among older people in southern provinces,
Vietnam. Int J Equity Health, 14:50.
4. Vermeiren S, Vella-Azzopardi R, Beckwee D, et al (2016).
Frailty and the Prediction of Negative Health Outcomes: A
Meta-Analysis. J Am Med Dir Assoc, 17(12):1163.e1-1163.e17.
5. Dent E, Lien C, Lim WS, et al (2017). The Asia-Pacific Clinical
Practice Guidelines for the Management of Frailty. J Am Med
Dir Assoc, 18(7):564-575.
6. Turner G, Clegg A (2014). Best practice guidelines for the
management of frailty: a British Geriatrics Society, Age UK and
Royal College of General Practitioners report. Age Ageing,
43(6):744-747.
7. Fried LP, Tangen C M, Walston J, et al (2001). Frailty in older
adults: evidence for a phenotype. J Gerontol A Biol Sci Med Sci,
56(3):M146-56.
8. Buta BJ, Walston JD, Godino JG, et al (2016). Frailty assessment
instruments: Systematic characterization of the uses and
contexts of highly-cited instruments. Ageing Res Rev, 26:53-61.
9. Nguyễn Văn Thình, Nguyễn Trần Tố Trân, Nguyễn Văn Trí
(2018). Tỷ lệ suy yếu và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi
trong cộng đồng quận 8 thành phố Hồ Chí Minh. Y học Thành
phố Hồ Chí Minh. 22(1):286-9.
10. Nguyễn Thị Minh Hải, Hồ Thị Kim Thanh (2017). Hội chứng
dễ bị tổn thương ở người cao tuổi mắc đái tháo đường typ 2.
Nghiên cứu Y học, 106(1):109-115.
11. Vu HTT, Nguyen TX, Nguyen TN, et al (2017). Prevalence of
frailty and its associated factors in older hospitalised patients in
Vietnam. BMC Geriatr, 17(1):216.
12. Sousa-Santos AR, Amaral TF (2017). Differences in handgrip
strength protocols to identify sarcopenia and frailty - a
systematic review. BMC Geriatr, 17(1):238.
13. Nguyen AT, Nguyen LH, Nguyen TX, et al (2019). Frailty
Prevalence and Association with Health-Related Quality of
Life Impairment among Rural Community-Dwelling Older
Adults in Vietnam. Int J Environ Res Public Health, 16(20):1-12.
14. Huỳnh Trung Quốc Hiếu, Nguyễn Văn Tân, Phạm Hòa Bình
(2018). Tỷ lệ suy yếu, đặc điểm các tiêu chí thành phần chẩn
đoán suy yếu theo tiêu chuẩn Fried và các yếu tố liên quan trên
bệnh nhân cao tuổi mắc bệnh động mạch vành mạn tính. Y học
Thành phố Hồ Chí Minh, 22(1):48-54.
15. Nguyễn Vạn Thiện, Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên, Thân Hà
Ngọc Thể (2020). Suy yếu và kết cục lâm sàng trải qua phẫu
thuật tại bệnh viện Đại học Y Dược. Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, 24(2):85-91.
16. Tamura Y, Ishikawa J, Fujiwara Y, et al (2018). Prevalence of
frailty, cognitive impairment, and sarcopenia in outpatients
with cardiometabolic disease in a frailty clinic. BMC Geriatr,
18(1):264.
17. Kim H, Higgins PA, Canaday DH, et al (2014). Frailty
assessment in the geriatric outpatient clinic. Geriatr Gerontol Int,
14(1):78-83.
18. Tavassoli N, Guyonnet S, Abellan Van Kan G, et al (2014).
Description of 1,108 older patients referred by their physician
to the "Geriatric Frailty Clinic (G.F.C) for Assessment of Frailty
and Prevention of Disability" at the gerontopole. J Nutr Health
Aging, 18(5):457-464.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021
Chuyên Đề Nội Khoa - Lão Khoa 167
19. Pritchard JM, Kennedy CC, Karampatos S, et al (2017).
Measuring frailty in clinical practice: a comparison of physical
frailty assessment methods in a geriatric out-patient clinic.
BMC Geriatr, 17(1):264
20. Nguyen TN, Cumming G, Hilmer SN (2015). A Review of
Frailty in Developing Countries. J Nutr Health Aging, 19(9):941-
946.
21. Faller JW, Pereira DDN, de Souza S, et al (2019). Instruments
for the detection of frailty syndrome in older adults: A
systematic review. PLoS ONE, 14(4):1-23.
Ngày nhận bài báo: 13/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_suy_yeu_theo_tieu_chuan_fried_tai_phong_kham_lao_khoa.pdf