Trong phạm vi bài viết này, chúng ta thử xem xét sự tương
quan giữa lạm phát và thị trường chứng khoán (TTCK), hai
vấn đề kinh tế được quan tâm nhiều trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay Việt Nam đang phải chịu đồng thời bốn dạng lạm phát:
lạm phát do tiền tệ, tức là một lượng cung tiền lớn đã được đưa
vào lưu thông; lạm phát do cầu kéo, trong khi nguồn cung hàng
hóa giảm sút; lạm phát do chi phí đẩy, tức các chi phí đầu vào
tăng giá và cuối cùng là lạm phát “ngoại nhập”, do giá các sản
phẩm trên thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến giá sản phẩm
trong nước. Ngoài bốn nguyên nhân trên, còn có một nhân tố
khác góp phần tăng áp lực lên lạm phát, đó là đầu cơ, cố tình làm
giá để thu lợi.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tương quan giữa lạm phát và chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tương quan giữa lạm phát
và chứng khoán
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta thử xem xét sự tương
quan giữa lạm phát và thị trường chứng khoán (TTCK), hai
vấn đề kinh tế được quan tâm nhiều trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay Việt Nam đang phải chịu đồng thời bốn dạng lạm phát:
lạm phát do tiền tệ, tức là một lượng cung tiền lớn đã được đưa
vào lưu thông; lạm phát do cầu kéo, trong khi nguồn cung hàng
hóa giảm sút; lạm phát do chi phí đẩy, tức các chi phí đầu vào
tăng giá và cuối cùng là lạm phát “ngoại nhập”, do giá các sản
phẩm trên thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến giá sản phẩm
trong nước. Ngoài bốn nguyên nhân trên, còn có một nhân tố
khác góp phần tăng áp lực lên lạm phát, đó là đầu cơ, cố tình làm
giá để thu lợi.
Ở Việt Nam, TTCK chưa hẳn là thước đo sức khỏe của nền kinh
tế bởi vì trên TTCK có nhiều ngành mà các doanh nghiệp niêm
yết chưa phải là doanh nghiệp đầu ngành để có thể đại diện cho
ngành đó như ngân hàng, viễn thông... Nhiều ngành mũi nhọn
trong nền kinh tế vẫn còn do Nhà nước nắm giữ, số lượng người
dân tham gia TTCK vẫn còn ít. Tuy nhiên với bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay, TTCK Việt Nam vẫn có sự tương quan khá rõ nét
với sự phát triển kinh tế, xã hội. Những yếu tố ảnh hưởng đến
sức khỏe của nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến TTCK.
Có cùng nguyên nhân
Những nguyên nhân gây ra lạm phát cũng tương quan với những
nguyên nhân gây suy giảm TTCK. Với nguyên nhân thứ nhất,
việc cung tiền ra lưu thông lớn gây ra lạm phát, trong đó có một
lượng lớn tiền được đưa vào TTCK. Do đó khi lượng cung tiền bị
“siết” lại (bắt đầu từ Chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà nước) thì
TTCK cũng bắt đầu giảm nhiệt.
Với nguyên nhân thứ hai, việc cung hàng hóa giảm sút sẽ làm
các mặt hàng trở nên khan hiếm và đương nhiên giá cả sẽ tăng
vọt. Điều này khiến nhiều nhà đầu tư (NĐT) phải cân đối lại
nguồn tiền để đầu tư và để đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Chưa kể
việc giá cả tăng cao làm lượng cung tiền ra lưu thông tăng theo
để bù lại phần chênh lệch do giá tăng khiến lạm phát có lý do để
tiếp tục tăng.
Việc lạm phát do các chi phí đầu vào, nguyên nhiên vật liệu tăng
là yếu tố khách quan, kéo theo vốn đầu tư của nhiều dự án tăng.
Đây chỉ là yếu tố bề nổi; còn có yếu tố lạm phát “ngầm” do đầu tư
kém hiệu quả. Điều này đồng thời làm xói mòn niềm tin của NĐT
vào các doanh nghiệp thực hiện dự án và cả các cơ quan quản
lý. Khi đó các NĐT sẽ có xu hướng tháo chạy ra khỏi thị trường
để bảo toàn đồng vốn của mình, góp phần đẩy TTCK “lao dốc”.
Trong thời đại toàn cầu hóa, yếu tố ngoại nhập đóng vai trò rất
lớn, ảnh hưởng đến nền kinh tế. Việc giá cả trên thế giới tăng cao
ảnh hưởng đến những mặt hàng có nguyên nhiên vật liệu phải
nhập khẩu. Thậm chí có những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất
đủ nhưng biện pháp quản lý không tốt cũng dễ bị đầu cơ đẩy giá
lên để trục lợi như trường hợp giá gạo vừa qua. Điều này cũng
làm các NĐT mất niềm tin. Các doanh nghiệp khi đó phải tăng chi
phí quản lý, chi phí sản xuất kinh doanh, với các doanh nghiệp
quản lý kém sẽ dẫn đến thua lỗ thậm chí phá sản. Các NĐT lúc
đó sẽ thu hồi vốn về đề phòng những rủi ro có thể gặp phải từ
các doanh nghiệp này.
Như vậy việc lạm phát tăng cao cũng là lý do khiến TTCK suy
giảm. Việc lạm phát tăng cao, không được khống chế sẽ làm cho
NĐT mất niềm tin và họ sẽ không dám đầu tư trên TTCK do sợ
rủi ro.
Hậu quả là nhiều chính sách của Nhà nước sẽ không thực hiện
được như quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ
chậm lại, một số chính sách mới sẽ khó được thực thi như việc
đánh thuế thu nhập chứng khoán... đồng thời các doanh nghiệp
cũng khó huy động thêm vốn đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh do TTCK mất đi tính thanh khoản, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tăng trưởng kinh tế. Còn TTCK sẽ mất đi ý nghĩa của
nó là một kênh huy động vốn của các tổ chức kinh tế và của cả
Nhà nước. Chưa kể những hậu quả khác như mất niềm tin của
NĐT, kể cả NĐT nước ngoài do thấy Việt Nam không còn là môi
trường đầu tư hấp dẫn.
Đầu tư trong bối cảnh lạm phát, nên hay không nên?
Đây là một câu hỏi khó cho nhiều NĐT trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên với sự phân tích và quan sát tốt vẫn có câu trả lời thỏa
đáng. TTCK suy giảm trong bối cảnh lạm phát cao nhưng những
ngành sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu
cuộc sống lại tăng trưởng mạnh bất kể TTCK liên tục suy giảm.
Cổ phiếu các ngành như lương thực thực phẩm, nguyên vật liệu,
hàng tiêu dùng thiết yếu là nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng ấn
tượng từ sau Tết đến nay, đặc biệt các doanh nghiệp đầu ngành
là tăng trưởng mạnh nhất.
Ngoài ra, thông tin cho thấy thị trường tài chính Mỹ đã qua được
giai đoạn khó khăn nhất, nhiều khả năng phục hồi sớm hơn dự
kiến. Một trong những chỉ số quan trọng của TTCK Mỹ là Dow
Jones cũng đã phục hồi vượt qua mức 13.000 điểm sau một thời
gian dài ở trong ngưỡng 12.000 điểm. Đây sẽ là những thông tin
hỗ trợ cho việc khống chế lạm phát tại Việt Nam và cũng chính là
động lực cho các NĐT quay trở lại thị trường tài chính (trong đó
có TTCK) nhất là với những NĐT dài hạn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuong_quan_giua_lam_phat_va_chung_khoan.pdf