Mục tiêu: Nguyên nhân răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm là do khoảng cách mọc răng không đủ trong
vùng hậu hàm giữa mặt xa răng cối lớn thứ hai và bờ trước cành đứng xương hàm dưới. Khoảng cách này có
liên quan đến sự tăng trưởng của mặt, trong đó những dạng hình thái mặt dài thường có chiều rộng cung răng
hẹp hơn hình thái mặt ngắn nên thường thiếu chỗ mọc cho răng khôn hàm dưới. Nghiên cứu được thực hiện
nhằm xác định và so sánh tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm trên những bệnh nhân ở các dạng hình thái
mặt khác nhau.
Phương pháp: Mẫu nghiên cứu bao gồm 100 phim sọ nghiêng và 100 phim toàn cảnh của bệnh nhân đến
khám và điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt – đại học Y Dược TP.HCM. Dựa vào bản vẽ nét của phim sọ nghiêng,
thực hiện đo đạc góc trục mặt (BaNa‐PtmGn), góc mặt phẳng hàm dưới (PoOr‐GoMe) để phân loại bệnh hình
thái mặt và đánh giá mức độ mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới trên phim toàn cảnh theo phân loại Pell –
Gregory và Winter
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 712 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tương quan giữa hình thái xương mặt và sự mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 352
TƯƠNG QUAN GIỮA HÌNH THÁI XƯƠNG MẶT VÀ SỰ MỌC LỆCH,
NGẦM CỦA RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI
Đặng Thị Thắm*, Nguyễn Thị Bích Lý*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nguyên nhân răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm là do khoảng cách mọc răng không đủ trong
vùng hậu hàm giữa mặt xa răng cối lớn thứ hai và bờ trước cành đứng xương hàm dưới. Khoảng cách này có
liên quan đến sự tăng trưởng của mặt, trong đó những dạng hình thái mặt dài thường có chiều rộng cung răng
hẹp hơn hình thái mặt ngắn nên thường thiếu chỗ mọc cho răng khôn hàm dưới. Nghiên cứu được thực hiện
nhằm xác định và so sánh tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm trên những bệnh nhân ở các dạng hình thái
mặt khác nhau.
Phương pháp: Mẫu nghiên cứu bao gồm 100 phim sọ nghiêng và 100 phim toàn cảnh của bệnh nhân đến
khám và điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt – đại học Y Dược TP.HCM. Dựa vào bản vẽ nét của phim sọ nghiêng,
thực hiện đo đạc góc trục mặt (BaNa‐PtmGn), góc mặt phẳng hàm dưới (PoOr‐GoMe) để phân loại bệnh hình
thái mặt và đánh giá mức độ mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới trên phim toàn cảnh theo phân loại Pell –
Gregory và Winter.
Kết quả: Dựa theo số đo trung bình của góc trục mặt và góc mặt phẳng hàm dưới, các cá thể trong mẫu
nghiên cứu được phân thành các nhóm theo dạng hình thái mặt khác nhau gồm: 37% hình thái mặt dài, 35%
hình thái mặt cân xứng, 28% hình thái mặt ngắn. Tỉ lệ tổng thể răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm là 54%;
trong đó tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm cao nhất ở nhóm bệnh nhân có hình thái mặt dài (62,16%), kế
đến là nhóm bệnh nhân có hình thái mặt cân xứng (54,29%) và thấp nhất ở nhóm bệnh nhân có hình thái mặt
ngắn (42,86%), tuy nhiên khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Trong phạm vi của nghiên cứu, có thể kết luận những bệnh nhân có khuôn mặt phát triển theo
chiều ngang thì có tỉ lệ răng khôn mọc lệch, ngầm ít hơn bệnh nhân có khuôn mặt phát triển theo chiều đứng.
Từ khóa: Răng khôn hàm dưới, sự mọc lệch, ngầm, hình thái mặt dài, hình thái mặt ngắn, phân loại hình
thái mặt.
ABSTRACT
THE INCIDENCE OF MANDIBULAR THIRD MOLAR IMPACTIONS
IN DIFFERENT SKELETAL FACE TYPES
Dang Thi Tham, Nguyen Thi Bich Ly
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 352 ‐ 357
Background: The cause of mandibular third molar impaction is said to be due to inadequate space between
the distal of the second mandibular molar and the anterior border of the ascending ramus of the mandible. The
amount of space is determined primarily by facial growth. This study aimed to evaluate and compare the
incidence of mandibular third molar impactions between different patterns of facial growth.
Method: Lateral cephalometric and panoramic radiographs of 100 healthy, Vietnam were examined. The
facial type categorized by the facial axis angle, mandibular angle and the degree of impaction was determined by
the Pell and Gregory system.
* Khoa Răng Hàm Mặt, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: BS. Đặng Thị Thắm ĐT: 0945797975 Email: thamdangrhm@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 353
Results: The facial type was determined by a measure of the facial axis angle and mandibular angle: 37%
had a facial axis angle regarded brachyfacial, 35% had a facial axis angle regarded mesofacial, and 28% were
dolichofacial. The overall rate of mandibular third molar impaction was 54%, the rate of impaction of mandibular
third molars in brachyfacial group was 62,16%, in mesofacial was 54,29% and 42,86% in dolichofacial.
Conclusions: Within the limitations of the study, it was concluded that the greater horizontal facial growth
pattern of brachyfacial subjects have a lower incidence of mandibular third molar impactions than dolichofacial
subjects.
Keywords: Third molar, impaction, dolichofacial, brachyfacial, skeletal face type.
MỞ ĐẦU
Răng khôn là răng xuất hiện sau cùng trên
cung hàm, cũng là răng có tỉ lệ mọc lệch, ngầm
nhiều hơn bất kỳ răng nào khác(1). Khi răng khôn
mọc lệch, ngầm có thể gây ra nhiều biến chứng
ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân.
Nguyên nhân mọc lệch, ngầm của răng khôn
hàm dưới đã được giải thích có liên quan đến
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố được phần lớn các
nghiên cứu trên thế giới thừa nhận chính là do
thiếu khoảng mọc răng từ giữa mặt xa răng cối
lớn thứ hai đến bờ trước cành đứng xương hàm
dưới. Do đó, đánh giá đúng đắn sự tăng trưởng
của hàm dưới và mặt có thể hỗ trợ tiên đoán sự
mọc của răng khôn hàm dưới.
Khung xương mặt phát triển theo hướng về
phía trước và xuống dưới; nếu tăng trưởng cân
xứng, sẽ có sự hài hòa tương đối giữa hai
hướng, và các giá trị số đo tương ứng trên phim
đo sọ sẽ là góc trục mặt khoảng 900 ± 3 và góc
mặt phẳng hàm dưới khoảng 220± 4.
Người có hình thái mặt ngắn sẽ có chiều cao
mặt phía trước ngắn và khuôn mặt rộng. Giá trị
của cả hai góc mặt phẳng hàm dưới và góc hàm
tương đối nhỏ và chiều cao cành đứng lớn hơn.
Trên phim đo sọ, giá trị góc trục mặt > 930, hoặc
góc mặt phẳng hàm dưới < 180.
Hình thái mặt dài là người với chiều cao mặt
dài phía trước và một khuôn mặt hẹp. Cả hai
góc mặt phẳng hàm dưới và góc hàm lớn nhưng
cành đứng tương đối ngắn. Trên phim đo sọ,
góc trục mặt < 870, hoặc góc mặt phẳng hàm
dưới > 260.
Mục đích nghiên cứu này là xác định và so
sánh tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm
trên những bệnh nhân ở các dạng hình thái
mặt khác nhau đến khám và điều trị tại khoa
Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược thành phố
Hồ Chí Minh.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu gồm 100 phim toàn cảnh và
100 phim sọ nghiêng của các cá thể người Việt từ
15 tuổi trở lên, các phim này được chọn theo kỹ
thuật chọn mẫu thuận tiện từ hồ sơ bệnh án của
các bệnh nhân đến khám và điều trị răng miệng
tại Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược
Thành phố Hồ Chí Minh từ 2009 ‐ 2012.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các phim được chọn trong mẫu nghiên cứu
phải thỏa mãn các yêu cầu sau đây:
‐ Cá thể được chụp phim là người Việt Nam,
dân tộc Việt (Kinh).
‐ Có đầy đủ hồ sơ bệnh án gồm các thông tin
cá nhân có giá trị gồm: tên họ, giới tính, ngày
tháng năm sinh, ngày chụp phim, bệnh sử điều
trị răng miệng.
‐ Có đầy đủ các răng và răng khôn hàm dưới
hình thành ít nhất hai phần ba chân răng.
‐ Phim X‐quang sọ nghiêng và phim toàn
cảnh chụp cùng thời điểm đúng tiêu chuẩn.
Hình ảnh trên phim có giá trị khảo sát, phim
không bị biến dạng hay hư hỏng làm ảnh hưởng
đến việc quan sát các chi tiết trên phim.
‐ Không có tiền sử bệnh lý hay đã từng phẫu
thuật tại vùng miệng và hàm mặt làm ảnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 354
hưởng đến sự hiện diện và phát triển của răng,
của xương hàm.
Phương pháp nghiên cứu:
‐ Dữ liệu ghi nhận bao gồm: tuổi của bệnh
nhân, giới tính, góc trục mặt, góc mặt phẳng
hàm dưới, sự mọc và mức độ mọc lệch, ngầm
của răng khôn hàm dưới.
‐ Các dạng hình thái mặt được xác định
bằng số đo của góc trục mặt và góc mặt phẳng
hàm dưới. Tất cả các góc được xác định bằng
phương pháp vẽ nét cổ điển trên phim sọ
nghiêng. Góc trục mặt là góc phía sau được tạo
ra bởi các đường đi qua điểm Ba‐Na và Ptm‐Gn.
Góc mặt phẳng hàm dưới là góc tạo bởi mặt
phẳng Frankfort ( Po‐ Or) và mặt phẳng hàm
dưới đi qua Gonion và Menton (Go‐Me). Tiêu
chuẩn xác định các dạng hình thái mặt như sau:
Bảng 1: Phân loại các dạng hình thái mặt
Hình thái mặt Mặt dài Mặt cân xứng Mặt ngắn
Góc trục mặt 930
Góc mặt phẳng
hàm dưới >26
0 180-220 <180
‐ Mức độ mọc lệch, ngầm của răng khôn
hàm dưới được phân loại theo hệ thống phân
loại Pell – Gregory và Winter. Hệ thống phân
loại này liên quan đến tương quan của răng
khôn với các cấu trúc lân cận và hướng lệch của
răng khôn. Các loại I, II và III liên quan đến mối
quan hệ của mặt xa răng cối lớn thứ 2 và bờ
trước cành đứng. Loại I khi chiều gần xa của
răng là hoàn toàn nằm trước cành đứng, Loại II
khi nằm một phần trong cành đứng và loại III
khi hoàn toàn nằm trong cành đứng. Các loại A,
B, và C liên quan đến chiều cao mặt nhai so với
mặt nhai răng cối lớn thứ 2 liền kề. Loại A khi
ngang mức với răng lân cận, Loại B khi giữa mặt
nhai và đường cổ răng của răng kế cận, và loại C
khi mặt nhai dưới đường cổ răng. Hướng lệch
của răng gồm thẳng, lệch gần, lệch xa. Tiêu
chuẩn xác định răng khôn hàm dưới mọc lệch,
ngầm như sau:
+ Răng có vị trí thuộc phân loại I, A, hướng
mọc thẳng được xem là mọc bình thường.
+ Các răng còn lại trong phân loại theo
phân loại Pell – Gregory và Winter, có vị trí và
hướng khác với răng mọc bình thường được
xem là lệch ngầm.
‐ Các số liệu, dữ kiện thu thập được nhập
vào máy tính và được lưu giữ lại, được xử lý
bằng phần mềm SPSS for Windows.
KẾT QUẢ
Trong 100 mẫu nghiên cứu có 37 bệnh nhân
có hình thái mặt dài, 35 bệnh nhân có hình thái
mặt cân xứng và 28 bệnh nhân có hình thái mặt
ngắn.
Kết quả cho thấy tỉ lệ chung của răng khôn
hàm dưới mọc lệch, ngầm là 54%. Liên quan đến
khác biệt giới tính, kết quả cho thấy tỉ lệ 63,89%
ở nam so với khoảng 48,44% ở nữ.
Tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm ở
các dạng hình thái mặt lần lượt là 62,16% ở
nhóm bệnh nhân có hình thái mặt dài, 54,29% ở
nhóm bệnh nhân có hình thái mặt cân xứng và
42,86% ở nhóm bệnh nhân có hình thái mặt
ngắn. Các kết quả cho thấy tỉ lệ mọc lệch, ngầm
của răng khôn hàm dưới cao nhất ở nhóm hình
thái mặt dài, kế đến là nhóm hình thái mặt cân
xứng và thấp nhất ở nhóm hình thái mặt ngắn (
Hình 1)
Nếu xét theo vị trí và hướng lệch của răng
khôn, kết quả cho thấy trong tất cả các dạng
hình thái mặt, phần lớn các răng khôn lệch
ngầm đều ở vị trí B, II và hướng lệch gần.
Hình 1: Sự khác biệt tỉ lệ răng khôn mọc lệch, ngầm
giữa các hình thái mặt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 355
BÀN LUẬN
Sự mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới
bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhưng sự thiếu
chỗ mọc của răng khôn hàm dưới tính từ mặt xa
răng cối lớn thứ hai đến bờ trước cành đứng là
yếu tố quan trọng nhất. Việc cung cấp đủ chỗ
cho vị trí răng khôn hàm dưới liên quan đến sự
tăng trưởng hàm dưới. Nghiên cứu liên quan
giữa sự tăng trưởng của xương hàm dưới và
răng khôn mọc lệch, ngầm, Bjork(2) cho thấy
khoảng cách cần thiết cho răng khôn liên quan
đến ba yếu tố riêng biệt thuộc về xương. Đó là
chiều dài hàm dưới ngắn, hướng tăng trưởng
đứng của lồi cầu và sự mọc ngược về phía sau
của bộ răng. Ba yếu tố này ảnh hưởng riêng biệt
đến sự mọc lệch, ngầm của răng khôn nhưng
cũng có thể làm nặng thêm hoặc bù trừ lẫn
nhau. Chiều dài hàm dưới được tính từ cằm tới
đầu lồi cầu. Hướng tăng trưởng của lồi cầu
quyết định hình dạng xương hàm dưới, được
xác định bởi các số đo góc xương hàm dưới. Và,
sự mọc ngược về phía sau của bộ răng xác định
mức độ nhô của hàm dưới.
Trong số các yếu tố trên, hướng tăng
trưởng đứng của lồi cầu ảnh hưởng nhiều nhất
đến khoảng cách cho răng khôn hàm dưới. Ở
những bệnh nhân có hình thái mặt dài với sự
tăng trưởng chủ yếu theo chiều dọc có răng
khôn mọc lệch, ngầm nhiều hơn các nhóm
hình thái mặt khác.
Yếu tố ảnh hưởng lớn thứ hai là chiều dài
hàm dưới. Theo Bjork(2), Richardson(17), khi chiều
dài hàm dưới ngắn dễ có sự mọc lệch, ngầm của
răng khôn. Tuy nhiên, Kaplan(10) và Dierkes(4)
không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa chiều
dài hàm dưới và các đối tượng có răng khôn
mọc lệch, ngầm. Theo một nghiên cứu của
Eroz(5) chiều dài hàm dưới ngắn ở bệnh nhân có
khuôn mặt dài gợi ý rằng hình thái mặt dài làm
tăng nguy cơ răng khôn hàm dưới mọc lệch,
ngầm. Kết quả của chúng tôi phù hợp với giả
thuyết của chúng tôi rằng tỉ lệ răng khôn hàm
dưới mọc lệch, ngầm lớn hơn ở những bệnh
nhân với một góc trục mặt là <870, người được
cho là có hình thái mặt dài. Kết quả cho thấy
nguy cơ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm
lớn hơn gấp 1,5 lần ở người có hình thái mặt cân
đối và hình thái mặt dài. Tuy nhiên, khi sử dụng
phép kiểm chi bình phương so sánh răng khôn
mọc lệch, ngầm giữa các đối tượng của hình thái
mặt ngắn và hình thái mặt dài trả kết quả p =
0,122; ngụ ý một sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê, giữa các đối tượng của hình thái mặt
dài và hình thái mặt cân xứng trả kết quả p =
0,498 cũng không có khác biệt ý nghĩa thống kê.
Vì kích thước mẫu nhỏ nên bất kỳ kết luận
thống kê nào cũng cần xem xét lại.
Yếu tố thứ ba ảnh hưởng tới khoảng cách
dành cho răng khôn đó là sự mọc ngược về phía
sau của bộ răng. Một nghiên cứu của Leighton
và Hunter(12) đã chứng minh rằng những bệnh
nhân có góc mặt phẳng hàm dưới và góc mặt
nhai với đường Sella turcica‐Nasion (S‐Na) lớn
hơn những bệnh nhân khác thì mức độ chen
chúc nặng nề hơn. Điều này đồng nghĩa với nếu
đoạn phía trước của hàm dưới ở vị trí phía trước
hơn hoặc ít xuống dưới hơn (ngụ ý một góc mặt
phẳng hàm dưới nhỏ) thì khoảng cách dành cho
răng khôn tăng lên.
Một yếu tố khác được các nhà nghiên cứu
xem xét đến đó là liên quan giữa chiều rộng
cung răng và sự mọc lệch, ngầm của răng khôn
hàm dưới. Nghiên cứu của Forster(6), Prasad(14)
đưa ra kết luận tương tự nhau về đánh giá độ
rộng cung răng giữa các hình thái mặt khác
nhau, các tác giả cho rằng chiều rộng cung răng
giảm ở những bệnh nhân có góc SNa‐MP tăng,
nghĩa là ở bệnh nhân có hình thái mặt dài thì
chiều rộng cung răng giảm, điều này làm tăng
nguy cơ chen chúc ở bộ răng và kết quả là làm
tăng nguy cơ răng khôn mọc lệch, ngầm.
Kết luận trên của chúng tôi chỉ ra rằng ở
những bệnh nhân có khuôn mặt ngắn sẽ có
hướng tăng trưởng ra trước nhiều hơn xuống
dưới, có mặt phẳng nhai nằm ngang hơn đồng
thời cũng có sự bồi đắp bờ trước cành đứng
nhiều hơn trong sự tăng trưởng và kết quả là ít
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng – Răng Hàm Mặt 356
có chen chúc răng và nhiều hơn khoảng cách
cho răng khôn mọc.
Tỉ lệ mọc lệch, ngầm toàn thể của răng khôn
hàm dưới trong nghiên cứu của chúng tôi là
54%. Kết quả này cao hơn đáng kể so với kết quả
của nghiên cứu Dachi và Howell(3) là 16,7%. Sự
khác biệt có thể được giải thích bởi cỡ mẫu và
loại mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi. Với
mẫu được chọn thuận tiện mà phần lớn là bệnh
nhân chỉnh hình răng mặt, có nhiều khả năng bị
sai lệch khớp cắn và tình trạng chen chúc các
răng, nhiều nguy cơ tiềm ẩn trong rối loạn sự
phát triển sọ mặt, do đó có thể có một tỉ lệ cao
của răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm hơn
một mẫu dân số ngẫu nhiên bình thường. Tỉ lệ
tương tự của sự mọc lệch, ngầm giữa giới tính
phù hợp với nghiên cứu của Dachi và Howell.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy
hơn 80% hướng lệch của răng khôn trong tất cả
các loại mặt là nghiêng gần. Điều này cũng
tương tự như kết quả từ các nghiên cứu khác(13).
Để giải thích cho hiện tượng này, có nhiều giả
thuyết được nêu lên. Thứ nhất, trong quá trình
hình thành mầm răng, răng khôn, răng cối lớn
thứ nhất và răng cối lớn thứ hai có chung thừng
dẫn răng, nhưng răng cối lớn thứ nhất và thứ
hai mọc sớm hơn và thường lệch gần (hướng
lệch sinh lý) nên răng khôn khi mọc cũng có
khuynh hướng bị kéo lệch về phía gần. Giả
thuyết thứ hai là trong quá trình phát triển,
xương hàm dưới thường xoay theo hướng
xuống dưới và ra trước, vì vậy răng khôn nằm ở
vị trí góc hàm có khuynh hướng xoay về phía
gần(15). Khi khảo sát về vị trí của răng khôn, phần
lớn các răng khôn lệch ngầm đều ở vị trí B nếu
xét tương quan theo chiều đứng và thuộc phân
loại II nếu xét tương quan theo chiều ngang. Kết
quả này cũng phù hợp với phần lớn các nghiên
cứu khác trên thế giới và tại Việt nam(8,13).
Những hạn chế của nghiên cứu này bao
gồm cỡ mẫu hạn chế do có nhiều khó khăn
trong việc chọn lựa những bệnh nhân thỏa
được tiêu chí chọn mẫu với răng khôn hàm
dưới đã hình thành ít nhất hai phần ba chân
răng, có đầy đủ phim sọ nghiêng và phim toàn
cảnh và chưa từng được điều trị chỉnh hình
răng mặt trước đây.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tập trung
khảo sát các yếu tố giúp cho việc tiên đoán sự
mọc lệch, ngầm của răng khôn, từ đó có kế
hoạch điều trị thích hợp và đúng thời điểm. Tuy
nhiên, do răng khôn là răng có nhiều biến thiên
trong phát triển so với các răng khác, thời gian
mọc và tình trạng mọc lệch, ngầm của răng có
nhiều thay đổi nằm ngoài dự đoán thông
thường. Theo Graveley(7), thông thường giai
đoạn phát triển sau cùng của răng khôn thường
là 18 tuổi. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây
đã chứng minh răng khôn hàm dưới mọc lệch,
ngầm tại thời điểm thông thường có thể đứng
thẳng và mọc lên tại một thời điểm sau này
trong đời(9,16)... Sewerin và Von Wowern(18) đã
chứng minh răng khôn hàm dưới có những thay
đổi vị trí trong độ tuổi từ 20 đến 24.
Richardson(16) kết luận rằng trong độ tuổi từ 18
đến 21, nhiều răng khôn không mọc có sự thay
đổi vị trí đáng kể, mặc dù hiếm khi đạt đến sự
mọc trên lâm sàng. Một nghiên cứu trên người
Jordan của Hattab(9) cho thấy, ở độ tuổi 19, một
số răng khôn lệch, ngầm dần dần mọc lên và đi
vào thực hiện chức năng. Kruger(11) cũng cho
thấy có sự mọc đầy đủ của răng khôn lệch,
ngầm ở tuổi 19, tuổi 26. Nghiên cứu của Venta(19)
xác định rằng những thay đổi về tình trạng lệch
ngầm của răng khôn có thể được nhìn thấy ở độ
tuổi 32. Do đó, trong nghiên cứu này, việc phân
loại sự mọc lệch, ngầm, mô tả tình trạng lệch,
ngầm lúc chụp X quang, và không phải là trạng
thái cuối cùng của răng khôn.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy:
‐ Tỉ lệ các dạng hình thái mặt lần lượt như
sau: hình thái mặt dài 37%, hình thái mặt cân
xứng 35%, hình thái mặt ngắn 28%.
‐ Tỉ lệ bệnh nhân có ít nhất một răng khôn
hàm dưới mọc lệch, ngầm là 54%. Tỉ lệ răng
khôn mọc lệch, ngầm ở nam là 63,89%, tỉ lệ này
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Răng Hàm Mặt 357
ở nữ là 48,44%. Không có sự khác biệt về tỉ lệ
răng khôn mọc lệch, ngầm giữa nam và nữ.
‐ Tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm ở
bệnh nhân có hình thái mặt dài là 62,16%, ở hình
thái mặt cân xứng là 54,29%, ở hình thái mặt
ngắn là 42,86%.
‐ Tỉ lệ răng khôn hàm dưới mọc lệch, ngầm
ở bệnh nhân có hình thái mặt dài và mặt cân
xứng cao hơn bệnh nhân có hình thái mặt
ngắn. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê.
Trong phạm vi giới hạn của nghiên cứu, có
thể kết luận rằng khuynh hướng gia tăng sự
phát triển của hệ thống sọ mặt theo hướng
ngang (hình thái mặt ngắn) cung cấp khoảng
mọc cho răng khôn hàm dưới nhiều hơn so với
hướng phát triển theo chiều đứng (hình thái mặt
dài). Với kết quả từ nghiên cứu này, chúng tôi
hy vọng góp phần vào việc dự đoán sớm răng
khôn mọc lệch, ngầm, đồng thời giúp các nhà
lâm sàng xây dựng chiến lược thích hợp trong
việc chăm sóc sức khỏe răng miệng nói riêng và
sức khỏe toàn thân nói chung. Tuy nhiên, cần có
một nghiên cứu sâu và rộng hơn có thể cung cấp
cho chúng ta một sự hiểu biết nhiều hơn về sự
mọc lệch, ngầm của răng khôn hàm dưới và sự
tăng trưởng của xương hàm dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bishara SE, Andreason G (1983). Third molars: a review. Am J
Orthod;83:131–137.
2. Bjork A, Jensen E, Palling M (1956). Mandibular growth and
third molar impaction. Acta Odont Scand;14:231–271.
3. Dachi SF, Howell FV (1961). A survey of 3874 routine full‐
mouth radiographs. II. A study of impacted teeth. Oral Surg
Oral Med Oral Pathol; 14:1165–1169.
4. Dierkes DD (1975) An investigation of the mandibular third
molars in orthodontic cases. Angle Orthod; 45: 207‐212.
5. Eroz B, Ceylan I, Aydemir S (200). An investigation of
mandibular morphology in subjects with different vertical
facial growth patterns. Aust Orthod J;16:16–21.
6. Forster M, Sunga E, Chung CH (2008). Relationship between
dental arch width and vertical facial morphology in untreated
adults. European Journal of Orthodontics; 30: 288–294.
7. Graveley JF (1965). A radiographic survey of third molar
development. Br Dent J;119:397–401.
8. Hassan AH (2010). Pattern of third molar impaction in a
Saudi population. Clinical, cosmetic and investigational
dentistry.
9. Hattab FN (1997). Positional changes and eruption of
impacted mandibular third molars in young adults. A
radiographic 4‐year follow‐ up study. Oral Surg Oral Med
Oral Pathol Oral Radiol Endod;84:604–608.
10. Kaplan RG (1975). Some factors related to mandibular third
molar impaction. Angle Orthod; 45: 153‐158.
11. Kruger E, Thomson WM, Konthasinghe P (2001). Third molar
outcomes from age 18 to 26: findings from a population‐based
New Zealand longitudinal study. Oral Surg Oral Med Oral
Pathol Oral Radiol Endod;92:150–155.
12. Leighton BC, Hunter WS (1982). Relationship between lower
arch spacing ⁄ crowding and facial height and depth. Am J
Orthod;82:418–425.
13. Obiechina AE, Arotiba JT, Fasola AO (2001). Third molar
impaction: evaluation of the symptoms and pattern of
impaction of mandibular third molar teeth in Nigerians.
Odonto‐Stomatologie Tropicale;93:22–25.
14. Prasad M, Kannampallil ST, Talapaneni AK, George
SA, Shetty SK (2013). Evaluation of arch width variations
among different skeletal patterns in South Indian population.
J Nat Sci Biol Med;4(1):94‐102.
15. Peron JM (2004) “Accidents d’évolution des dents de
sagesse”, EMC‐Dentisterie, 1:147‐158.
16. Richardson M (1992). Changes in lower third molar position
in the young adult. Am J Orthod Dentofac Orthop;102:320–
327.
17. Richardson ME ( 1979). The etiology and prediction of
mandibular third molar impaction. Angle Orthod; 47: 165‐172
18. Sewerin I, von Wowern N (1990). A radiographic four‐year
follow‐up study of asymptomatic mandibular third molars in
young adults. Int Dent J;40:24–30.
19. Venta I, Turtola L, Ylipaavalniemi P (2001). Radiographic
follow‐up of impacted third molars from age 20 to 32 years.
Int J Oral Maxillofac Surg;30:54–57.
Ngày nhận bài báo: 22/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo:9/12/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 352_3737.pdf