Một nội dung quan trọng của Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới là vấn đề
Lịch sử nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại. Đây là
một giai đoạnhình thành những nhà nước, những sản phẩm pháp điển hóa đầu
tiên, mà hình thức cũng như nội dung của chúng ảnh hưởng lớn đến thời trung đại
và cận, hiện đại sau này trong một chiều dài lịch sử phát triển. Vấn đề quan trọng
là sau khi nghiên cứu từng nhà nước điển hình ở hai khu vực này, sinh viên phải
chỉ ra được những đặc điểm cơ bản, những điểm giống và khác, cũng như cơ sở
tạo nên sự tương đồng và khác biệt ấy dưới góc nhìn của nhà luật học.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 2412 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tương đồng và khác biệt cơ bản giữa nhà nước và pháp luật phương đông, phương tây cổ đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tương đồng và khác biệt cơ bản giữa nhà nước và
pháp luật phương đông, phương tây cổ đại
Một nội dung quan trọng của Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới là vấn đề
Lịch sử nhà nước và pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại. Đây là
một giai đoạn hình thành những nhà nước, những sản phẩm pháp điển hóa đầu
tiên, mà hình thức cũng như nội dung của chúng ảnh hưởng lớn đến thời trung đại
và cận, hiện đại sau này trong một chiều dài lịch sử phát triển. Vấn đề quan trọng
là sau khi nghiên cứu từng nhà nước điển hình ở hai khu vực này, sinh viên phải
chỉ ra được những đặc điểm cơ bản, những điểm giống và khác, cũng như cơ sở
tạo nên sự tương đồng và khác biệt ấy dưới góc nhìn của nhà luật học. Phần tổng
hợp dưới đây chỉ dừng lại ở mức nêu vấn đề để những bạn sinh viên quan tâm khi
có điều kiện tiếp tục cùng tìm hiểu, nghiên cứu chứ không làm thay những gì các
bạn phải làm. Chớ vội "copy + paste" các nội dung này rồi nhân bản thành các
bài tiểu luận hoặc bài kiểm tra na ná giống nhau, điều này là vô ích vì những vấn
đề chính cần phải giải thích làm rõ, tác giả về cơ bản đã không/ chưa giải đáp mà
nêu thành câu hỏi, để trong dấu ngoặc vuông, chữ màu xanh. Hi vọng những câu
hỏi này phần nào sẽ kích thích các bạn sinh viên tư duy, thậm chí phản biện lại và
rút ra những cơ sở lý luận cũng như những bài học kinh nghiệm cho hiện tại.
I. PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
Thuật ngữ "Phương Đông" ban đầu từ quan niệm của người phương Tây. Người
Châu Âu luôn coi mình là trung tâm nên Phương Đông là thuật ngữ dùng để chỉ
toàn bộ khu vực Châu Á nằm ở Phía đông của Phương Tây và được chia thành
Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông.
Đến nay trong giới khoa học giới hạn địa lý của Phương Đông đến đâu vẫn chưa
hoàn toàn thống nhất. Do vậy, mỗi khi bàn đến Phương Đông thông thường người
ta hay đưa ra một khung không gian cụ thể để định vị đối tượng mà người ta muốn
nói. Các nhà sử học của Việt Nam hầu như tương đối thống nhất với ý kiến cho
rằng phạm vi không gian phương Đông có tầm ảnh hưởng lớn đến Việt Nam là hai
vùng Đông Bắc Á (mà nhiều người còn gọi là Đông Á) và Đông Nam Á. [Tìm trên
bản đồ và xác định khu vực Đông Á và Đông Nam Á hiện nay gồm những quốc
gia nào?]
Những nhà nước ra đời sớm ở Phương Đông thời cổ đại là Ai cập cổ đại, Lưỡng
Hà cổ đại, Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại [Tìm trên bản đồ vị trí địa lý tương
ứng? Khu vực này ngày nay là những quốc gia nào?]. Đây là những nhà nước ra
đời sớm cả về thời gian và không gian, xuất phát từ đặc điểm đặc thù về tự nhiên,
kinh tế, xã hội.
Khái niệm Phương Tây được hiểu là Châu Âu. Các nhà nước cổ đại ở Phương Tây
tiêu biểu là các nhà nước Hy Lạp và La Mã. Về địa lý, hai nhà nước này được hình
thành chủ yếu trên 2 bán đảo là bán đảo Ban căng và bán đảo Italia (ngoài ra còn
có các đảo nhỏ khác). Hai bán đảo này đều nhìn ra Địa Trung Hải, đối diện với các
nước Tây Á. [Tìm trên bản đồ vị trí địa lý tương ứng? Khu vực này hiện nay là
lãnh thổ của những quốc gia nào?].
Về mặt thời gian, khái niệm thời cổ đại được hiểu theo từng nhà nước, từng khu
vực khác nhau. Ví dụ: Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại tồn tại từ khoảng 4000 năm
TCN đến năm 539 TCN chế độ xã hội này bị đế quốc Ba Tư xâm lược và diệt
vong. Nhà nước Ấn Độ cổ đại tồn tại từ khoảng 2000 năm TCN đến cuối thế kỷ 3
TCN. Ở Phương Tây, nhà nước La Mã cổ đại ra đời muộn hơn vào khoảng thế kỷ
6 TCN và tồn tại đến năm 476 SCN khi đế quốc La Mã bị diệt vong.
II. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG CƠ BẢN
1. Về nhà nước
- Về bản chất: theo học thuyết Mác - Lênin, quyền lực chính trị trong các nhà
nước ở Phương Đông và Phương Tây cổ đại thuộc về giai cấp chủ nô. Cơ cở kinh
tế của nhà nước là dựa trên chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với toàn bộ tư liệu
sản xuất và nô lệ. Cơ sở xã hội là một hệ thống kết cấu giai cấp khá phức tạp trong
đó về cơ bản có hai giai cấp chủ nô và nô lệ [Tiếp tục nghiên cứu và phân tích
những quan điểm khoa học không phải theo học thuyết Mác - Lênin về vấn đề
này? Nhận xét, đánh giá?].
- Về chức năng: Hoạt động chủ yếu của nhà nước thời kỳ này là bảo vệ, củng cố
chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư* liệu sản xuất, tiến hành các cuộc chiến tranh
xâm lược, đồng thời phòng thủ, bảo vệ đất nước và tiến hành các hoạt động ngoại
giao, buôn bán với các quốc gia khác [Ngoài những chức năng trên nhà nước
Phương Đông cổ đại còn có những chức năng nào khác? Nêu dẫn chứng?].
- Về hình thức nhà nước: Trước hết xét về hình thức chính thể thì các nhà nước ở
Phương Đông cổ đại được tổ chức theo chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô với
các mức độ tập trung quyền lực khác nhau (Ví dụ: Trung Quốc cổ đại, Ấn Độ cổ
đại, Ai cập cổ đại, Lưỡng Hà cổ đại). Ở Phương Tây cổ đại, các nhà nước được tổ
chức chủ yếu theo chính thể quân chủ và cộng hòa chủ nô [Vì sao hình thức chính
thể cộng hòa lại xuất hiện ở Phương Tây?]. Các nhà nước cộng hòa chủ nô tồn tại
dưới hai dạng thức là cộng hòa dân chủ chủ nô và cộng hòa quý tộc chủ nô (Ví dụ
nhà nước Xpác (nhà nước cộng hoà quý tộc chủ nô); nhà nước Aten (nhà nước dân
chủ chủ nô); nhà nước La mã (cộng hoà và quân chủ chuyên chế). Hình thức cấu
trúc cơ bản của nhà nước chủ nô là cấu trúc đơn nhất, tuy nhiên ở Phương Tây
xuất hiện các nhà nước thành bang có tính tự trị cao [Giải thích?].Chế độ chính trị
phổ biến thời kỳ này là chế độ độc tài chuyên chế với việc áp dụng công khai các
biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước bằng bạo lực và phản dân chủ, tuy nhiên
cũng có nhà nước áp dụng những biện pháp dân chủ sơ khai, điển hình như thiết
chế Hội nghị công dân, việc bỏ phiếu bằng vỏ sò ở nhà nước Aten ở Hy Lạp cổ
đại.
- Về tổ chức bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước ở cả Phương Đông và Phương
Tây đã bao gồm các cơ quan chuyên trách với chức năng, nhiệm vụ khác nhau và
trong bộ máy đều có một bộ phận quan trọng là các cơ quan quản lý về quân sự,
cảnh sát [Nêu rõ tên những cơ quan nhà nước cụ thể? Nhận xét?].
2. Về pháp luật
- Về tính giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật
Pháp luật (hiểu theo nghĩa hẹp là những Bộ luật thành văn) thường ra đời muộn
hơn nhiều thời điểm xuất hiện nhà nước [Dẫn chứng? Thời gian, địa điểm?]. Theo
học thuyết Mác - Lênin, thời kỳ nào và ở đâu thì pháp luật về cơ bản cũng thể hiện
và bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp thống trị và thời cổ đại cũng không phải
ngoại lệ. Thời kỳ này bản chất pháp luật là pháp luật chủ nô có mục đích thiết lập
một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp chủ nô. Ngoài tính giai cấp, pháp luật chủ nô
cũng có vai trò xã hội quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã
hội. Tính xã hội của nhà nước cũng như pháp luật ở Phương Đông trong một
chừng mực nhất định còn có trước và tỏ ra trội vượt hơn cả tính giai cấp. Ví dụ: Ở
phần mở đầu của Bộ luật, Hammurabi tuyên bố: “Vì hạnh phúc của loài người,
thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm – Hammurabi, một vị quốc vương
quang vinh và ngoan đạo, vì chính nghĩa, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân
theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp người yếu, làm cho trẫm giống
như thần Samát sai xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp muôn dân.” Hoặc ở phần
kết của Bộ luật, Hammurabi khẳng định lại mục đích của Bộ luật: “Để cho kẻ
mạnh không hà hiếp kẻ yếu; để cho những người cô quả có thể nương tựa ở thành
Babilon…; để cho sự tuyên án trong nước tiện việc quyết định; để cho những kẻ
thiệt thòi được trình bày lẽ phải…Nếu kẻ nào thi hành triệt để bộ luật này thì sẽ
được các thần phù hộ, trái lại nếu người nào không nghiêm chỉnh thi hành hoặc
sửa đổi bộ luật thì sẽ bị thần linh trừng phạt”. [Nêu thêm các ví dụ khác để chứng
minh: tính xã hội của nhà nước cũng như pháp luật trong lịch sử ở Phương Đông ở
một chừng mực nhất định còn có trước và tỏ ra trội vượt hơn cả tính giai cấp?].
- Bảo vệ chế độ chiếm hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và nô lệ, hợp pháp
hóa các hình thức bóc lột của chủ nô đối với nô lệ.
Pháp luật ghi nhận và bảo vệ chặt chẽ quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản
xuất được thể hiện trong Bộ Luật Hammurabi, Luật 12 Bảng ở La Mã sơ kỳ nền
cộng hòa, Bộ pháp điển Corpus iuris Civilis của Hoàng đế Justinian. Cụ thể pháp
luật nhiều nước thời kỳ này cho phép tra tấn, giam cầm con nợ để yêu cầu trả nợ.
Các hành vi mua bán, chuyển nhượng tài sản của chủ tư hữu cũng được pháp luật
nhiều nước quy định chặt chẽ nhằm tránh sự lừa dối, gian lận làm phương hại đến
quyền tư hữu (Ví dụ: Điều 2 Bảng III Luật 12 Bảng qui định: „Người chủ nợ có
thể cầm tay con nợ và đưa con nợ đến Tòa. Nếu con nợ không trả được nợ theo
phán quyết của Tòa và cũng không có ai bảo lãnh cho anh ta, chủ nợ có thể tống
giam con nợ"). Đồng thời pháp luật chủ nô cũng công khai tuyên bố tình trạng vô
quyền của nô lệ và thừa nhận nhiều hình thức bóc lột, hình thức tra tấn tàn nhẫn
của chủ nô đối với nô lệ (Điều 3 Bảng III Luật 12 Bảng quy định: "Đến ngày
phiên chợ thứ ba, các chủ nợ có thể tùng xẻo con nợ không trả được nợ. Nếu xử
quá mức, họ cũng không bị tội" [Các ví dụ khác?].
- Ghi nhận tình trạng phân biệt đẳng cấp trong xã hội.
Pháp luật cho phép những chủ nô giàu có thuộc các đẳng cấp cao trong xã hội có
những đặc quyền về kinh tế và chính trị. Ví dụ: Điều 1 Bảng X Luật 12 Bảng qui
định cấm kết hôn giữa quí tộc và bình dân: "Cấm kết hôn giữa người bình dân và
quí tộc" [Các ví dụ khác?].
- Ghi nhận và bảo vệ chế độ gia trưởng.
Pháp luật của nhiều nhà nước thời kỳ này ghi nhận quyền tuyệt đối của người gia
trưởng đối với tài sản trong gia đình và địa vị chi phối của người gia trưởng đối
với các thành viên khác của gia đình. Thí dụ, ở Bộ luật Hammurabi nếu không có
con, người chồng có quyền ly dị hoặc bán vợ hoặc lấy vợ lẽ; nếu bắt được vợ
ngoại tình thì chồng có quyền trói vợ và nhân tình của vợ ném xuống sông. Ngược
lại nếu vợ bắt được chồng ngoại tình, chỉ có quyền ly dị mà thôi. Điều 129 qui
định : "Nếu vợ của dân tự do ngủ với người đàn ông khác mà bị bắt, thì phải trói
cả hai người này lại và ném xuống sông" [Nêu thêm các ví dụ khác để chứng
minh?].
- Hình phạt mang nặng tính trừng trị, ít chứa đựng tính chất giáo dục và cảm hóa.
Pháp luật thời kỳ này hình sự hóa hầu hết các vi phạm, kể cả các vi phạm trong
quan hệ dân sự [Giải thích?]. Các qui phạm pháp luật đặc biệt là ở Phương Đông
thời kỳ cổ đại thường mang tính hàm hỗn (hầu hết các điều luật đều kèm theo chế
tài). Hình phạt được áp dụng phổ biến nhất là tử hình bằng rất nhiều hình thức
khác nhau như: ném đá cho đến chết, buộc đá ném xuống sông, ném người vào
vạc dầu, chặt người ra thành nhiều mảnh, thiêu chết, chôn sống, treo cổ... [Dẫn
chứng cụ thể?] Các hình phạt dã man khác cũng được áp dụng cho các hành vi
phạm tội ít nghiêm trọng hơn như: chọc mù mắt, khắc chữ vào mặt, chặt chân tay,
cắt lưỡi, bắt đi trên than hồng... Pháp luật chủ nô còn cho phép tra tấn nhục hình
phạm nhân, cho phép trả thù ngang bằng (Ví dụ: Điều 2 Bảng VIII Luật 12 bảng:
"Nếu ai gây thương tích làm tàn tật người khác và không bồi thường, thì việc trả
thù ngang bằng là hợp pháp"). Trong nhiều trường hợp, pháp luật chủ nô cho
phép giết cả những người không liên quan đến hành vi phạm tội. (Ví dụ: Điều 38
Bộ luật Hammurabi qui định: " Nếu thợ xây nhà mà xây không đảm bảo, nhà đổ,
chủ nhà chết thì người thợ xây bị giết." hoặc Điều 39 Bộ luật Hammurabi: "Nếu
nhà đổ, con của người chủ nhà chết thì con của người thợ xây cũng phải chết
theo") [Nêu thêm các ví dụ khác để chứng minh?].
- Nguồn luật, phạm vi điều chỉnh, mức độ điều chỉnh của pháp luật.
Hình thức biểu hiện của pháp luật chủ nô rất đa dạng, bao gồm: Tập quán pháp,
Tiền lệ pháp và văn bản pháp luật. Nhiều nhà nước chủ nô đã xây dựng được
những bộ luật lớn. Điển hình như: Bộ luật Hammurabi của nhà nước chủ nô
Babilon (thế kỉ XVIII TCN); Bộ luật Đôracông của nhà nước chủ nô Hy lạp (thế kỉ
VII TCN); Bộ luật 12 bảng của nhà nước chủ nô La Mã (thế kỉ V TCN); Bộ luật
Pháp Kinh của nước Hàn - một quốc gia cát cứ ở Trung Quốc (thế kỉ V TCN);
Luật Manu của nhà nước chủ nô Ấn độ (thế kỉ I TCN); Bộ pháp điển Luật La Mã
của Hoàng Đế Justinian ở hậu kỳ nền Cộng hòa Corpus Iuris Civilis...
Các bộ luật cổ thường được chia thành nhóm các điều khoản có nội dung khác
nhau. Phạm vi điều chỉnh của các Bộ luật trên tương đối rộng, điều chỉnh hầu hết
mọi quan hệ xã hội từ các vấn đề tội phạm, hình phạt, tố tụng đến các quan hệ về
hợp đồng, hôn nhân gia đình, thừa kế, sở hữu, hợp đồng, mai táng...[Dẫn chứng cụ
thể?]. Về mức độ điều chỉnh của luật, thông thường người ta phân biệt thành hai
mức độ điều chỉnh pháp luật: cụ thể – chi tiết và khái quát hoá. Các Bộ luật cổ về
cơ bản áp dụng mức độ điều chỉnh cụ thể, chi tiết [Tìm những ví dụ là những qui
phạm cụ thể chứng minh?]. Tuy nhiên trong các Bộ luật cổ cũng có nhiều qui định
điều chỉnh ở mức độ khái quát hóa điển hình là các qui định về dân sự ở Luật La
Mã [Tìm những vị dụ là những qui phạm cụ thể chứng minh?].
[...]
III. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CƠ BẢN
1. Điều kiện tự nhiên
Các nhà nước ở Phương Đông ra đời sớm ở lưu vực các con sông lớn (Sông Nin ở
Ai Cập, Sông Ti-grơ và Ơ-ph-rát ở Lưỡng Hà, Sông Hằng Hà ở Ấn Độ, Sông
Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung Quốc) ["sớm" ở đây hiểu theo những nghĩa
nào?]. Đây là nơi thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp phát triển.
Trong khi đó về điều kiện tự nhiên, ở Phương Tây, các nhà nước Hy Lạp và La
Mã được hình thành chủ yếu trên 2 bán đảo là bán đảo Ban-căng và bán đảo I-ta-
li-a. Đây là nơi không thuận lợi cho kinh tế nông nghiệp, nhưng thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp [Nêu dẫn chứng cụ thể để chứng
minh cho lập luận trên? lý giải vì sao nhà nước ở Phương Tây lại ra đời muộn
hơn ở Phương Đông?].
2. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Ở Phương Đông, nhà nước Phương Đông ra đời trên cơ sở lực lượng sản xuất phát
triển thuộc giai đoạn đồ đồng. Kinh tế tự nhiên, trong đó nông nghiệp chiếm vai
trò chủ đạo. Ở Phương Tây, nhà nước ra đời trên cơ sở lực lượng sản xuất đã phát
triển thuộc giai đoạn đồ sắt [Sự khác nhau về tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất nói lên điều gì?].
3. Thời điểm xuất hiện nhà nước
Các nhà sử học cho rằng khoảng thế kỷ 7 TCN, tức là mãi sau hơn 2000 năm, sau
sự xuất hiện của nhà nước Phương Đông cổ đại, nhà nước Phương Tây mới ra đời
(Cụ thể: nhà nước thành bang của Hy Lạp xuất hiện sớm nhất vào khoảng thế kỷ
VIII - VI TCN trong khi đó nhà nước Phương Đông lại xuất hiện rất sớm từ cuối
thiên niên kỷ thứ IV TCN) [Dựa vào đâu mà người ta xác định được thời điểm xuất
hiện nhà nước? Tiêu chí nào để biết rằng nhà nước ra đời? Liệu có một cái mốc cụ
thể rằng nhà nước năm này hay năm kia ra đời không?].
4. Thành thị
Nhà nước Phương Đông cổ đại tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên,
kinh tế hàng hoá chậm phát triển nên không xuất hiện những trung tâm kinh tế lớn.
[Tại sao kinh tế hàng hóa lại chậm phát triển ở Phương Đông?].
Ở Phương Tây, nền kinh tế vẫn mang tính chất tự nhiên, nhưng khác với Phương
Đông là kinh tế công thương nghiệp ở Phương Tây rất phát triển, nên ở Phương
Tây đã sớm xuất hiện những thành thị, những khu tập trung buôn bán, trao đổi
hàng hóa.
Khác cơ bản với thành thị ở Phương Đông mang nhiều yếu tố "tĩnh" chủ yếu là
trung tâm chính trị, ngược lại thành thị Phương Tây mang nhiều yếu tố "động",
vừa là trung tâm chính trị vừa là trung tâm kinh tế. Hoạt động lưu thông tiền tệ,
kinh tế hàng hoá phát triển nên thành thị phương Tây cổ đại rất phồn thịnh [Lý
giải vì sao có sự khác biệt nói trên?].
5. Sở hữu ruộng đất
Ở Phương Đông, ruộng đất hầu hết thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Quyền sở
hữu ruộng đất của tư nhân có nơi có lúc xuất hiện nhưng đóng vai trò không đáng
kể [Giải thích?]. Công xã nông thôn ở Phương Đông không bị phá vỡ mà được bảo
lưu, tồn tại một cách vững chắc [Lý giải sự tồn tại lâu dài và phổ biến của công xã
nông thôn ở Phương Đông?]. Chính sự tồn tại của công xã nông thôn đã làm cho
quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước Phương Đông càng thêm ổn định, củng cố
thêm chế độ độc tài chuyên chế [Giải thích?].
Ở Phương Tây, quyền sở hữu ruộng đất chủ yếu thuộc về tư nhân. Ví dụ: ở La Mã,
sau các cuộc chiến tranh chinh phục, nhà nước đã biến ruộng đất chiếm được
thành đất công rồi đem bán hoặc chia cho tư nhân [Tại sao lại có sự khác biệt như
vậy?].
6. Tính giai cấp, xu hướng tập quyền hay phân quyền
Phương Đông bước vào xã hội có giai cấp sớm [Chỉ ra điểm giống và khác giữa
việc phân chia thành giai cấp và sự phân chia thành đẳng cấp (ví dụ ở Ấn Độ cổ
đại)?]. Ngay từ đầu tính tập quyền của nhà nước Phương Đông có xu hướng phát
triển mạnh(Tại sao? ở nhà nước nào?).Nếu như ở Phương Đông càng có các cuộc
chiến tranh thì nhu cầu hợp nhất, sáp nhập hay tập quyền càng mạnh thì các nhà
nước ở Phương Tây lại có phần ngược lại, sau những cuộc chiến tranh, sớm hay
muộn cũng đều tồn tại một xu hướng chia tách hoặc phân quyền [Bạn đồng ý hay
phản đối nhận định này? Hãy nêu dẫn chứng chứng minh và lập luận?] vì thực
chất một trong những lý do quan trọng là ban đầu các nhà nước ở Phương Tây
không có nhu cầu nội tại và thường trực về trị thủy như các nhà nước Phương
Đông [Thử phản biện lại?]. Sự phân quyền ấy ở Phương Tây thời cổ đại là sự xuất
hiện các nhà nước thành bang, sau này phát triển hơn ở thời trung cổ là sự chia
tách giữa quyền lực nhà nước và quyền lực của giáo hội, quyền lực của nhà vua và
các lãnh chúa [Còn có những nguyên nhân nào khác không?].
7. Hình thức nhà nước
Hình thức chính thể ở Phương Đông hầu hết là hình thức quân chủ (Nêu ví dụ?).
Vua đứng đầu nhà nước, có quyền lực cao nhất về mọi mặt, vua được thần thánh
hoá, được coi là vị thần vĩ đại, là thiên tử hoặc tăng lữ tối cao [Ở nhà nước nào?
Người đứng đầu nhà nước thời kỳ này ở Phương Đông có những đặc điểm gì
giống và khác so với người đứng đầu nhà nước ở những giai đoạn sau đó? Cho ví
dụ?]. Quần chúng nhân dân phải phục tùng vô điều kiện giai cấp thống trị và hầu
như không được tham gia bất cứ sinh hoạt chính trị nào của đất nước [Dẫn
chứng?].
Ở Phương Tây, hình thức chính thể được biểu hiện rất đa dạng gồm dân chủ chủ
nô, cộng hoà quý tộc, quân chủ chuyên chế. Ví dụ nhà nước Xpác (nhà nước cộng
hoà quý tộc chủ nô); nhà nước Aten (nhà nước cộng hòa dân chủ chủ nô); nhà
nước La mã (cộng hoà và quân chủ chuyên chế). Những nhà nước được tổ chức
theo chính thể cộng hòa thì các thiết chế quan trọng được hình thành bằng phương
thức bầu cử. Ví dụ: Thiết chế Hội nghị công dân ở nhà nước Aten; Hai vua trong
nhà nước Xpac được hình thành bằng phương thức bầu cử (Tại sao ở Phương Tây
lại xuất hiện đa dạng các hình thức chính thể như vậy? hình thức quân chủ ở
Phương Đông và Phương Tây thời kỳ này có những điểm khác nhau nào?].
Về hình thức cấu trúc nhà nước,đa phần các nhà nước là đơn nhất. Ở Phương Tây
đặc biệt là ở Hy Lạp và La Mã cổ đại đã lần lượt xuất hiện các nhà nước thành
bang (Tại sao? Nêu ví dụ?).
Về chế độ chính trị, khác với các nhà nước Phương Đông, các biện pháp và biểu
hiện dân chủ (Demokratie) đã xuất hiện ở nhà nước Phương Tây. Ví dụ: Hội nghị
công dân - cơ quan quyền lực cao nhất trong nhà nước Aten cổ đại. Một trong
những lý do khiến tính chất, mức độ dân chủ của nhà nước ở Phương Tây cao hơn
Phương Đông thời kỳ này là do những nhà nước ở Phương Tây thời kỳ này liên
tục có những cuộc cải cách rất toàn diện từ chính trị, kinh tế đến xã hội (Ví dụ:
điển hình là các cuộc cải cách của Xô-lông, Clít-x-ten, Pê-ri-clét ở nhà nước Aten
cổ đại) [Tại sao ở Phương Tây lại diễn ra các cuộc cải cách như vậy? So sánh các
cuộc cải cách ở Phương Đông (ví dụ cải cách của Thương Ưởng) và Phương Tây
(cải cách của Xô-lông, Clít-x-ten, Pê-ri-clét để thấy rõ sự khác biệt?]. Tuy nhiên
cũng phải thừa nhận, về tính chất và mức độ của dân chủ ở đây chỉ dừng lại ở dân
chủ đa số và chứa đựng những hạn chế nhất định. Khái niệm "dân" ở đây cũng chỉ
được hiểu là những người dân tự do chứ không phải là một bộ phận lớn trong xã
hội lúc này là những người nô lệ [Phân tích để làm rõ hơn giá trị và hạn chế của
dân chủ trong nhà nước Aten? Nâng cao: Thử so sánh dân chủ sơ khai của nhà
nước Aten với những hình thức và mức độ dân chủ trên thế giới hiện nay ? Dân
chủ có những hạn chế gì không? Trong khi nhân loại chưa tìm ra những hình thức
mới tiến bộ hơn thì cần hạn chế những hiệu ứng nghịch nào của dân chủ?].
8. Vấn đề "nô lệ" và "kiểu nhà nước"
Ở Phương Tây, theo học thuyết Mác - Lênin, chế độ nô lệ là điển hình (hay còn
gọi là kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ điển hình). Sự điển hình thể hiện ở tính chất,
số lượng và vai trò nô lệ trong các ngành sản xuất. Hy Lạp và La Mã là nơi mà số
lượng nô lệ hết sức đông đảo, là lực lượng lao động chính tạo ra của cải và sự giàu
có cho chủ nô. Ví dụ: Ở Hy lạp trong thời kỳ chiến tranh Ba Tư, con số nô lệ ở
Ca-ran-tơ lên đến 46 vạn, ở E-gi-i-nơ lên đến 47 vạn, tức là tính theo dân số thì
trung bình cứ 10 nô lệ mới có 1 người tự do [Tại sao chế độ nô lệ ở Phương Tây
thì được coi là "điển hình", còn ở Phương Đông thì không được coi là "điển hình"?
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội có hạn chế không? Nếu có ở
điểm nào?].
Kiểu nhà nước ở Phương Đông thời cổ đại nhiều nhà khoa học đặt tên là kiểu nhà
nước Châu Á (hay Phương thức sản xuất châu Á) mang những đặc trưng riêng.
Khác với Phương Tây, chế độ nô lệ Phương Đông là chế độ nô lệ không điển hình,
mang nặng tính chất gia trưởng, căn cứ vào nhiều yếu tố, song quan trọng nhất là
nô lệ thời kì này không phải là lực lượng đông đảo và lao động chính trong xã hội,
chủ yếu chỉ phục dịch trong gia đình các quí tộc. Nô lệ có nguồn gốc xuất thân chủ
yếu từ các tù binh chiến tranh, hoặc những người nông dân, thợ thủ công bị phá
sản [Nô lệ thì khác, vậy chủ nô có khác không? đưa ra dẫn chứng để so sánh].
9. Về bộ máy nhà nước
Ở Phương Đông, hệ thống các cơ quan giúp việc cho nhà vua từ trung ương đến
địa phương được phân chia theo chức năng, lĩnh vực (kể tên các cơ quan, chức
năng, nhiệm vụ cụ thể?). Ở Phương Tây, ví dụ nhà nước cộng hòa quí tộc chủ nô
Xpac cũng có thiết chế nhà vua (hai nhà vua) - người đứng đầu nhà nước, nhưng
hai vua không phải là thiết chế nắm nhiều quyền hành. Ở các nhà nước Phương
Tây cổ đại, sự chuyên môn hóa trong hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng
cao hơn, xuất phát từ nguyên nhân những nhà nước này liên tục có các cuộc cải
cách rất toàn diện [Còn có nguyên nhân nào khác không?]. Ví dụ: Sự chuyên
nghiệp trong tổ chức và hoạt động của các thiết chế như: Hội đồng 5 quan giám sát
ở nhà nước Xpac, Hội đồng 10 tướng lĩnh ở Aten, Hội đồng quan án ở La Mã
[Tiêu chí nào để đánh giá sự chuyên nghiệp?].
Về cơ quan xét xử, ở Phương Đông nhìn chung cơ quan xét xử không tách riêng
thành cơ quan độc lập với cơ quan hành chính. Cụ thể quyền xét xử tối cao thuộc
về ngư*ời đứng đầu nhà nư*ớc và thư*ờng được nhà vua uỷ nhiệm cho một cơ
quan đặc biệt ở trung ương. Tại các địa phương, hoạt động xét xử thuộc thẩm
quyền của viên quan đứng đầu đơn vị hành chính đó. [Tại sao ở Phương Đông thì
cơ quan xét xử không tách riêng thành cơ quan độc lập với các cơ quan hành
chính? Hệ quả?]. Ở Phương Tây ngay từ đầu tính chuyên nghiệp và tính độc lập
trong hoạt động xét xử đã cao hơn. Các cơ quan xét xử thường được tách khỏi cơ
quan hành chính và phân nhóm để xét xử những loại vụ việc cụ thể. Ví dụ: ở La
mã (thời kì cộng hòa) cơ quan xét xử chuyên trách được thành lập với số lượng
khá đông các thẩm phán được bầu, hoạt động thường xuyên theo các nhóm với
quy chế hoạt động chặt chẽ. [Vậy ở nhà nước Hy Lạp thời cổ đại có sự tách biệt
này không?].
10. Pháp luật
Thời cổ đại đã có những sản phẩm lập pháp rất đồ sộ và thể hiện tính pháp điển
hóa cao như Bộ luật Hammurabi và Bộ luật Manu (ở Phương Đông), Luật 12
Bảng và Bộ pháp điển Corpus Iuris Civilis năm 533 SCN ở La Mã (ở Phương
Tây). Đây là những thành tựu nổi bật về lập pháp thời cổ đại.
Điểm khác biệtrõ nhất giữa pháp luật Phương Đông và Phương Tây thời cổ đại là
ở chỗ: Nếu so sánh với các nước Phương Tây thời cổ đại thì pháp luật dân sự ở
Phương Đông kém phát triển hơn Phương Tây. Ở Phương Đông, lĩnh vực pháp
luật hình sự với các qui định về tội phạm và hình phạt được qui định nhiều hơn
hơn pháp luật dân sự. (Đồng tình hay phản đối? Nêu ví dụ, lập luận? Ngoài ra còn
có những khác biệt nào nữa?).
Điểm hạn chếrõ nhất của các Bộ luật cổ là các chế định hình sự. Sự hàm hỗn giữa
hình luật và dân luật chính là nét đặc trưng cơ bản của luật pháp thời kỳ này. Hay
nói theo ngôn ngữ hiện đại là nhiều bộ luật (đặc biệt là các Bộ luật ở Phương
Đông) đã hình sự hoá hầu hết các quan hệ xã hội. [Các bộ luật cổ ở Phương Tây
có đặc điểm này không? Nêu dẫn chứng?]. Ngoài ra các qui định hình sự cũng thể
hiện sự bất bình đẳng rõ nét và sự tiếp thu các tàn dư của cách xử sự trong xã
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 95_3924.pdf