Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân

Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.

Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòà". Bản chất nhân dân của Nhà nước ta - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam - do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là thành quả của các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống phong kiến và ngoại xâm, là thành quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngay từ đầu và trong quá trình hiện diện của mình, Nhà nước không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà còn là đại biểu ý chí, tâm nguyện và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để "thăng quan, phát tài", chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: "Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra".

Đã là nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân. làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước". Chính quyền của nhân dân phải do nhân dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội sâu và rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là "Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ". Phải chăng, phương châm chúng ta đang thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chính là thể hiện tư tưởng của Bác Hồ về dân chủ, thực hành dân chủ.

 

doc28 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người.  Trong Tuyên ngôn Độc lập đọc trước quốc dân đồng bào ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Nhà nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ cộng hòà". Bản chất nhân dân của Nhà nước ta - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam - do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là thành quả của các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống phong kiến và ngoại xâm, là thành quả trực tiếp của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Ngay từ đầu và trong quá trình hiện diện của mình, Nhà nước không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà còn là đại biểu ý chí, tâm nguyện và trí tuệ của cả dân tộc Việt Nam. Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để "thăng quan, phát tài", chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Người khẳng định: "Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra"... Đã là nhà nước của dân thì chính quyền ấy nhất thiết phải do dân quyết định, tức là nhân dân phải là người thực hiện quyền lực, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các đại biểu của mình. Đó là những hình thức cơ bản của nền dân chủ. Dân chủ vừa là thành quả đấu tranh cách mạng của dân tộc, vừa là giá trị văn hóa, do đó theo Người "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ sinh hoạt chính trị toàn dân... làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia vào công việc của Nhà nước". Chính quyền của nhân dân phải do nhân dân tự tay mình thực hiện. Như vậy nền tảng xã hội sâu và rộng, ý thức chính trị và khả năng tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân là yếu tố đảm bảo cho nền dân chủ mới. Người coi yếu tố đầu tiên của dân chủ là "Có việc gì thì ai cũng được bàn, cũng phải bàn. Khi bàn rồi thì bỏ thăm, ý kiến nào nhiều người theo hơn thì được. Ấy là dân chủ". Phải chăng, phương châm chúng ta đang thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chính là thể hiện tư tưởng của Bác Hồ về dân chủ, thực hành dân chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước phải căn cứ vào chỗ bộ máy nhà nước giải quyết những nhu cầu thiết yếu hằng ngày của dân chúng tốt hay chưa, có vì lợi ích của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân hay không. Trong điều kiện có chính quyền, Người đã tiên lượng: "Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp "dĩ công vi tư". Thực chất những căn bệnh đó là vi phạm quyền làm chủ của nhân dân lao động, là độc tố phản văn hoá đi ngược lại bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngoài việc giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, "Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì" (*), còn phải là công việc thường xuyên, liên tục và được đông đảo quần chúng nhân dân cùng tham gia kiểm soát, giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước để phòng tránh tha hóa quyền lực và chống giặc "nội xâm" đó có hiệu quả. Để Nhà nước ta luôn trong sạch vững mạnh, điều không thể thiếu mà Bác Hồ luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn là những "công bộc" của nhân dân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân; "việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh". Bởi xét tới cùng cán bộ luôn là cái gốc của mọi công việc. Do đó, việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, đặc biệt biết sử dụng nhân tài "vừa hồng vừa chuyên" là một khâu quan trọng để hoàn thiện bộ máy nhà nước, nhất là trong giai đoạn chúng ta đang xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN. Đảng phải có cơ chế, chính sách để sớm phát hiện và bồi dưỡng các tài năng giới thiệu vào các cơ quan nhà nước... Người yêu cầu : "Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới được". Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị. Giá trị trường tồn của những luận điểm đó không chỉ soi sáng mà còn là sự tiếp sức để quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta vững tin trong tiến trình xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN - một bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, "một Chính phủ chú trọng thực tế và sẽ ra sức làm việc" đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, nhằm thực hiện mục tiêu, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hiện dân chủ trong chính trị Ngày cập nhật: 07-04-2010 Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay. Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của mọi thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng địng: dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, nó có vai trò tác động to lớn đối với sự phát triển của con người và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng vấn đề dân chủ, thấy được tầm quan trọng của nó trong đời sống xã hội và coi dân chủ là mục đích chính trị trực tiếp của cách mạng. Đời sống xã hội cần đến dân chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động của nó, trước hết là trong chính trị và kinh tế. Đây là hai bộ phận quan trọng của hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của kinh tế tùy thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó không thể thiếu vai trò của dân chủ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà hạt nhân là lợi ích của các chủ thể kinh tế. Cũng như vậy, dân chủ trong chính trị nhằm thúc đẩy chính trị phát triển. Chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của các giai cấp, đảng phái, dân tộc, quốc gia, mà vấn đề quan trọng nhất của nó là tổ chức chính quyền Nhà nước. Cho nên, thiếu dân chủ trong chính trị tất sẽ dẫn đến chính trị độc tài, chuyên quyền, sẽ đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại. Tư tưởng dân chủ chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân và tinh thần thời đại, vừa thể hiện đặc sắc những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu một cách sáng tạo những tinh hoa của giá trị dân chủ nhân loại. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị lý luận của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái niệm dân chủ: Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ. Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân dân. Họ trở thành người chủ của đất nước. Dân là chủ đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong chế độ chính trị, trong xã hội và Nhà nước thuộc về người dân. Dân là chủ đối lập với nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị bọn thực dân thống trị. Dân là chủ còn biểu hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân. Nhưng nếu dân chủ chỉ dừng lại ở chỗ Dân là chủ thì chưa hoàn thiện mà còn là Dân làm chủ. Làm chủ phản ánh năng lực thực thi dân chủ của người dân. Năng lực đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm...; đó là nội hàm của năng lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính địa vị người chủ và năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm chủ nó là hành động của dân, biểu hiện năng lực thực hành dân chủ, thước đo về trình độ phát triển ý thức dân chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực, thực hiện sự ủy quyền chân chính của mình vào thể chế chính trị và thể chế Nhà nước. Địa vị và năng lực đó biểu hiện ra trong sự vận động của chính trị đó là: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (1). Như vậy, dân là chủ thể gốc của quyền lực và Nhà nước là chủ thể đại diện cho dân. Nhà nước là một vật thể mà dân là chủ sở hữu, là chủ thể ủy quyền, Nhà nước thực hiện sự ủy quyền của dân. Thực hiện sự kết hợp và thống nhất năng lực và địa vị của người chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân” (2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của Nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là gì. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” (3). Và: “Nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” (4). Hay như: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ” (5) và “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chính quyền dân chủ có nghĩa chính là quyền do người dân làm chủ” (6) T.tHCM về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới. (Nguồn: KênhSinhViên.Net) Mọi người chia sẻ những bài liên quan vào đây, đừng post lung tung nha. Thank you! Bài 1: . TƯ TƯỞNG Hồ Chí Minh VỀ ĐẠO ĐỨC a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng - Đạo đức là “gốc” nền tảng của mỗi con người - Đạo đức có vai trò quan trọng trong xã hội - Vai trò của đạo đức còn được thể hiện trong chức năng điều chỉnh b. Những phẩm chất đạo đưccs của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh. - Trung với nước, hiếu với dân - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - Yêu thương con người - Tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng thủy chung c. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới - Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức - Xây dựng đạo đức mới đi đôi với chống hành vi vi phạm đạo đức - Tư dưỡng đạo đức suốt đời . QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA Hồ Chí Minh VỀ VĂN HÓA. a. Quan điểm về vị trí vai trò của văn hóa - Văn hóa là gì? - Văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh (ĐN Hồ Chí Minh đưa ra năm 1942- 1943) - Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội - Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hóa mí được giải phóng... - Xây dựng kinh tế để tạo đk xây dựng và phát triển của văn hóa - Văn hó k thể dứng ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị, thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển b. Quan điểm về tính chất của văn hóa - Tính dân tộc ( bản sắc văn hóa dân tộc) - Tính khoa học - Tính đại chúng c. Quan điểm về chức năng của văn hóa - Bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm cao đẹp - Nâng cao dân trí - Bòi dưỡng phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh luôn hướng co người đi tới chân, thiện mỹ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân 16:44', 18/11/ 2003 (GMT+7) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn. Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc 16:10', 11/11/ 2003 (GMT+7) Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã sử dụng khoảng 2.000 lần cụm từ "đoàn kết", "đại đoàn kết" trong các văn bản viết. Người luôn luôn nhận thức đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng. Sau khi giành được độc lập dân tộc, tại nhiều hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh sức mạnh của đoàn kết: "Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi". "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công!" Năm 1951, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc nhân buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam: "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Như vậy, đoàn kết toàn dân là một đường lối lãnh đạo của Đảng. Không dừng lại ở việc xác định đại đoàn kết là mục tiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định nhiệm vụ của toàn Đảng là giữ gìn sự đoàn kết. Trong Di chúc, Người dặn lại chúng ta "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Dân tộc Việt Nam được hiểu là mỗi người dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở Việt Nam và những người Việt sinh sống, làm ăn ở nước ngoài có gốc gác là người Việt Nam, không phân biệt họ là dân tộc thiểu số hay đa số, họ theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt họ giàu hay nghèo, họ là nam hay nữ, già hay trẻ. Đại đoàn kết toàn dân tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một mục tiêu chung. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ". Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân rộng rãi nhưng phải xác định lực lượng nào là nền tảng của khối đại đoàn kết. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết". Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Mặt trận là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt trong nước và ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn mọi người phải khắc phục đoàn kết xuôi chiều, hình thức, đoàn kết thiếu đấu tranh với những mặt chưa tốt. Người viết: "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân". Người cổ vũ mọi người vào Mặt trận Việt Minh: Dân ta phải nhớ chữ đồng: "đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh". Là tổ chức chính trị to lớn nhất, cách mạng nhất, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất đồng thời cũng là một thành viên của Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta có chính sách Mặt trận dân tộc đúng đắn, cho nên đã phát huy được truyền thống đoàn kết và yêu nước rất vẻ vang của dân tộc ta". Đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn kết quốc tế và là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Ngược lại, đại đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. HCM Câu 14 Tthcm về đạo đức? Vận dụng tư tưởng nhân văn - đạo đức HCM trong điều kiện đất nước hiện tại? Wednesday, 21. October 2009, 06:00 1. Những quan điểm chung của HCM về văn hóa. + Văn hóa là toàn những sáng tạo và phát minh. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nói mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Văn hóa là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần của xh. Chính trị, xh được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển. HCM đã vạch ra đường lối: phải tiến hành cách mạng chính trị trước, cụ thể là cách mạng gpdt để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. "Xã hội thể nào thì văn hóa thế ấy. Văn nghệ của ta rất phong phú, nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được." Xây dựng kt để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. "Văn hóa là kiên trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xh có kiết thiết rồi thì văn hóa mới được kiến thiết và có đủ điều kiện phát triển được". Như vậy, văn hóa phải ở trong kt và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Trong kháng chiến, Người định hướng hoạt động văn hóa, thực hiện khẩu hiệu: "văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa", những người hoạt động văn hóa cũng là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. + Chức năng của văn hóa. - Một là, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người. Người thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đó là chức năng cao quý của văn hóa. HCM nói phải làm cho văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đi sâu vào tâm lý quốc dân, để xây dựng tình cảm cho con người. - Hai là, nâng cao dân trí, "mọi người phải hiểu biết quyền lợi của mình...phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". Khi miền bắc quá độ lên CNXH, người nói "chúng ta phải một nước dốt nát, cực khổ thành 1 nước văn hóa cao và đời sống vui tươi hạnh phúc". - Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình. + Tính chất của văn hóa: Tính dân tộc Tính khoa học Tính đại chúng 2- Tthcm về 1 số lĩnh vực chính của văn hóa + Văn hóa giáo dục: Trong nền giáo dục phong kiến, kinh viện xa rời thực tiễn, coi kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức. Giáo dục phong kiến hướng tới kẻ sĩ, người quân tử, bậc trượng phu, phụ nữ bị tước quyền học. Trong nền giáo dục thực dân, không mở mang trí tuệ, thực hiện ngu dân. Đó là nền văn hóa đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát. Nền giáo dục của nước VN sau khi được độc lập là nền giáo dục mới. - Mục tiêu của giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng dạy và học. Đó là đào tạo những con người mới có đức có tài. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Cải tạo tri thức cũ, đào tạo tri thức mới. Đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng x/dựng đất nước giàu mạnh và văn minh. Mở mang dân trí từ việc xóa nạn mù chữ, chống giặc dốt, kết hợp phổ cập và nâng cao. - Phải cải cách giáo dục, xây dựng hệ thống trường, lớp với chương trình và nội dung dạy học thật khoa học, hợp lý, phù hợp với bước phát triển của ta. Phải luôn gắn giáo dục với thực tiễn VN, học đi đôi với hành, học kết hợp với lao động sản xuất. Giáo dục phải có tính định hướng đúng đắn, rõ ràng, thiết thực. - Học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người; học suốt đời; coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. "Học không biết chán, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học" - Phải không ngừng nâng cao dân trí. Học tập văn hóa gắn với học tập khoa học kỹ thuật. + Văn hóa văn nghệ: - Văn nghệ là mặt trận, nghệ sỹ là chiến sỹ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xh mới, con người mới. "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". "Cũng như các chiến sỹ khác, chiến sỹ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự tổ quốc, phụng sự kháng chiến, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sỹ nghệ thuật cần có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng...đặt lợi ích của kháng chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết." - Văn nghệ phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân. "Thật là 1 thế giới thần tiên. Nhưng tôi nhớ mường tượng như Lỗ Tấn, nhà đại văn hào của cách mạng Trung Hoa đã nói 1 câu đại ý như thế này: Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật. Nhưng nhìn mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán, thấy nhật nhẽo và mới biết rằng muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật thì phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người." Thực tại đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghê. Chiến sỹ văn nghệ phải thật hòa mình với quần chúng và không được quên rằng "...chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó-thì nhân dân cũng sẽ quên anh ta." Thực tiễn không chỉ là nguồn nuôi dưỡng những sáng tác, mà còn là những tinh hoa trong sáng tác dân gian đã được chắt lọc từ thế hệ này qua thế hệ khác. Nhân dân cũng sáng tác văn hóa văn nghệ và hưởng thụ văn nghệ, chúng ta thường gọi là sáng tác dân gian. Những sáng tác ấy là "những hòn ngọc quý". - Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc. Phải phản ánh cho hay, cho chân thật sự nghiệp của cách mạng của nhân dân. "Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì bổ ích". "Cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn 1 món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người thấy nhiều loại hoa đẹp." Như vậy văn nghệ phản ánh chân thực những gì đã có trong đời sống của nhân dân, mà còn hướng dẫn nhân dân loại bỏ cái giả, cái sai, cái không đúng, để vươn tới cái lý tưởng, đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Chính điều đó mở đường cho sáng tạo không giới hạn của văn nghệ sĩ. + Văn hóa đời sống Quan điểm xây dựng đời sống mới thực sự là quan điểm độc đáo của HCM về văn hóa. K

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctthcm_3_chuong_cuoi_1458.doc
Tài liệu liên quan