Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN, là kết quả của một quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh tinh hoa của dân tộc với tinh hoa của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp và xã hội loài người.
Cũng như mọi tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc thực tiễn của nó. Các nguồn gốc tư tưởng chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là:
a.Truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hóa đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đep và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hóa này đã góp phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bât khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đó là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa- tinh thần Việt Nam.
Thứ hai tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái trong hoạn nạn khó khăn là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc ta. Là người Việt Nam ai cũng thuộc, cũng nhớ những câu tục ngữ như “ Lá lành đùm lá rách” hoặc câu ca dao:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ , Đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải thực hiện bốn chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Thứ ba, dân tộc ta là một dân tộc cần cù, dũng cảm thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất và chiến đấu, là môt dân tộc không ngừng học hỏi điều hay lẽ phải, sẵn sàng mở cửa đón nhận tinh hoa nhân loại. Bên cạnh đó dân ta còn rất lạc quan yêu đời, trong muôn nguy, ngàn khó người lao động vẫn động viên nhau: “ chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Cơ sở của niềm lạc quan đó là niềm tin vào bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý mà Hồ Chí Minh là một hiện thân của truyền thống đó:[1]
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần phải càng cao
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại[3]
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây.
Tinh hoa văn hóa phương Đông là một trong những cội nguồn quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã đươc tiếp thu một nền quốc học và hán học khá vững vàng. Nho giáo , phât giáo cũng ảnh hưởng lớn tới tư tưởng , lối sống của Người : thương người như thể thương thân, bình đẳng, dân chủ chất phát, giản dị, luôn làm việc thiện cho đời
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI MỚI
CHƯƠNG 1
CÁI NHÌN BAO QUÁT VỀ TƯ TƯỞNG HỒ CH Í MINH
1.1 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện về cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN, là kết quả của một quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh tinh hoa của dân tộc với tinh hoa của thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giai cấp và xã hội loài người.
Cũng như mọi tư tưởng khác, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc thực tiễn của nó. Các nguồn gốc tư tưởng chủ yếu ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là:
a.Truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo lập cho dân tộc một nền văn hóa đặc sắc, phong phú và bền vững với nhiều truyền thống tốt đep và cao quý. Những truyền thống tư tưởng và văn hóa này đã góp phần tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bât khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Đó là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa- tinh thần Việt Nam.
Thứ hai tinh thần nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái trong hoạn nạn khó khăn là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc ta. Là người Việt Nam ai cũng thuộc, cũng nhớ những câu tục ngữ như “ Lá lành đùm lá rách” hoặc câu ca dao:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Kế thừa truyền thống ấy, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ , Đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải thực hiện bốn chữ “đồng”: đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Thứ ba, dân tộc ta là một dân tộc cần cù, dũng cảm thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất và chiến đấu, là môt dân tộc không ngừng học hỏi điều hay lẽ phải, sẵn sàng mở cửa đón nhận tinh hoa nhân loại. Bên cạnh đó dân ta còn rất lạc quan yêu đời, trong muôn nguy, ngàn khó người lao động vẫn động viên nhau: “ chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Cơ sở của niềm lạc quan đó là niềm tin vào bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý mà Hồ Chí Minh là một hiện thân của truyền thống đó:[1]
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần phải càng cao
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại[3]
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây.
Tinh hoa văn hóa phương Đông là một trong những cội nguồn quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã đươc tiếp thu một nền quốc học và hán học khá vững vàng. Nho giáo , phât giáo cũng ảnh hưởng lớn tới tư tưởng , lối sống của Người : thương người như thể thương thân, bình đẳng, dân chủ chất phát, giản dị, luôn làm việc thiện cho đời…
Tư tưởng về văn hóa phương Tây là một trong những nguồn gốc quan trọng góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh : phần lớn thời gian hoạt động của người ở nước ngoài, ở các nước châu Âu, nền văn hóa, chế độ dân chủ tư sản và tư tưởng cách mạng đã ảnh hưởng sâu sắc tới người. Hồ Chí Minh đã nghiên cứu và tiếp thu tư tưởng văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ.
Tiếp theo là chủ nghĩa Mac- Lênin: từ một người yêu nước thành môt người cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người của Hồ Chí Minh. Nhờ phép biện chứng Người đã tiếp trhu những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hóa và tạo lên hệ tư tưởng của mình. Vì vây có thể nói , tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mac- Lênin ở thời đại các dân tộc áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.
Cuối cùng là những nhân tố chủ quan thuộc phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh. Bản thân Hồ Chí Minh là người tự chủ sáng tạo, độc lập trong tư duy. Người đã có một quá trình khổ công học tập, rèn luyện để tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri thức nhân loại, sớm vươn tới đỉnh cao tri thức nhân loại để tạo nên tri thức và kinh nghiệm của mình. Người là một nhà yêu nước chân chính, một người cộng sản nhiệt tình cách mạng, yêu nước thương dân, yêu thương người cùng khổ, một tinh thần sẵn sàng hi sinh vì độc lập , vì tự do, vì hạnh phúc của đồng bào, vì sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng loài người.
1.2 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.Nội dung nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm các quan điểm cơ bản về giải phóng dân tộc, giai cấp và con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người công bộc thật trung thành của nhân dân.
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn diện , bao gồm các nội dung chủ yêu như:[1]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Viêt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh…
Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, đa lĩnh vực và là một hệ thống mở. Các ngành, các giới , các đối tượng có thể lựa chọn, bổ sung những chuyên đề có nội dung phù hợp với nhiệm vụ chính trị của mình.
2.Giá trị tư tưởng hồ chí minh
a, Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển dân tộc.[2]
-Tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại,nó trường tồn, bất diệt,là tài sản vô giá của dân tộc ta. Sở dĩ như vậy vì tư tưởng của người không chỉ tiếp thu, kế thừa những giá trị tinh hoa văn hoá,tư tưởng vĩnh cửu của loài người trong đó chủ yếu là chủ nghĩa Mác-Lênin,mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại.
- Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,xã hội công bằng,văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta nhận thức đúng vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân tộc,phát triển xã hội và đảm bảo quyền con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta vì đã thấm sâu vào quần chúng nhân dân,chỉ đạo thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với thời đại.qua thực tiễn cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng toả sáng,chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu con người.
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển thế giới[1]
Phản ánh khát vọng thời đại
Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vĩ đại,không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam,mà còn là sản phẩm của thời đại,của nhân loại tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xâu sắc về lí luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin và từ đó góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh,trong đó có cả những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội,về hoà bình hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc...có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
Tìm ra giải pháp đấu tranh giải phóng loài người
Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề làm cách nào để giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người đã xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của dân tộc bị áp bức và để chiến thắng chủ nghĩa đế quốc, cần phải thực hiện đại đoàn kết, đại hoà hợp.Đây là một đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh.
Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn ở chỗ,ngay từ rất sớm.Trên cơ sở nắm vững đặc điểm của thời đại, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và phạm trù cách mạng vô sản.
Từ đó Người đã đề ra đường lối chiếm lược,sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước,giải phóng dân tộc .
Cổ vũ các dân tộc đáu tranh vì những mục tiêu cao cả
Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại,người thầy thiên tài của cách mạng việt nam, một nhà macxit lỗi lạc,nhà hoạt động xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,một chiến sĩ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỉ xx.
Hồ Chí Minh đã làm sống lại nhũng giá trị tinh thần của dân tộc việt nam.Sự nghiệp cứu nước của người đã xoá bỏ tất cả những tủi nhục nô lệ đè nặng lên đầu dân tộc ta trong gần một thế kỉ.
CHƯƠNG 2
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA
CON NGƯỜI
2.1 CON NGƯỜI LÀ MỘT CHỈNH THỂ.[1]
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác- Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu, xuyên suốt toàn bộ nội dung, tư tưởng của Người.
Tư tưởng ấy được dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình, Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng “chăn dân” của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Đó là một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một hiên triết phương đông.
Người xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó.con người luôn hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ, mặc dù “có thế này, thế khác”.
Người nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân không được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình"Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới.[7]
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong các mối quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; mấy mươi triệu người viêt nam có người thế này, thế khác, nhưng đều cùng là nòi giống lạc hồng. những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Lôgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lôgíc phát triển tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v .) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh.
2.2 CON NGƯỜI CỤ THỂ, LỊCH SỬ
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một vấn đề có tính khái quát hóa và trừu tượng hóa mà là một vấn đề cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước” và cũng có thể suy rộng ra là những “nô lệ mất nước” và “người cùng khổ”, “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?" Niềm tin của Bác hướng vào nhân dân. Cuộc chiến đấu chống áp bức sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về con người. Người yêu thương con người, tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lòng thương yêu nhân dân, thương yêu nhân loại" là "không bao giờ thay đổi".[3]
Quan điểm tin vào dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làmngười cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương yêu cũng như toàn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi trọng sức mạnh đoàn kết toàn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi toàn thế giới.
Có thể nói Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn gắn liền với lịch sử, ý thức nhân dân gắn liền với độc lập dân tộc.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Và đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
2.3 BẢN CHẤT CON NGƯỜI MANG TÍNH XÃ HỘI.[3]
Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất.Trong quá trình lao động, sản xuất ấy con người dần nhận thức được những hiện tượng, quy luật của tự nhiên, của xã hội; hiểu về mình và hiểu biết lẫn nhau…, xác lập các mối quan hệ giữa người với người.
Con người là sản phẩm của xã hội, trong quan niệm của Hồ Chí Minh con người là sự tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh em, họ hàng , bầu bạn, đồng bào , loài người…
Nói tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI VÀ CHIẾN LƯỢC “TRỒNG NGƯỜI”
3.1 QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI
a. Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng[6]
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do đó, "trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Lòng thương người của Hồ Chí Minh đồng nghĩa với tình yêu thương dành cho các dân tộc bị áp bức. Tình yêu thương đó luôn đi cùng với triết lý hành động vì con người. Đi tìm và khai phá con đường cách mạng, Nguyễn Ái Quốc luôn đặt vấn đề tự do song hành với hạnh phúc của dân tộc. Có người Mỹ nói: “Cụ Hồ vừa là Washington, vừa là Lincoln”[3]. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải trải qua nạn đói khủng khiếp do Pháp – Nhật gây ra. Trong tình cảnh khó khăn ấy, Người chủ trương phát động nhân dân tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Bản thân Người gương mẫu mỗi tháng nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói. Ngay cả khi đi chiến dịch Biên giới, Người không chịu cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với các cán bộ, chiến sĩ để ngựa thồ hành lý cho anh em. Khi đi thăm trại tù binh về, Người không còn áo khoác vì Người đã cho một tên tù binh bị rét cóng. Tình yêu thương của Hồ Chí Minh dành cho mọi kiếp người, mọi số phận. Một trong những học trò xuất sắc của Người là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết “Những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là những tình cảm lớn. Trong đời hoạt động cách mạng của Bác, cũng như trong đời sống hàng ngày của mình, Hồ Chí Minh luôn đối xử với người có lý, có tình. Trong tình yêu đó có chỗ cho mọi người, không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt… Đối với kẻ lầm đường, lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy. Chúa Jesus nói: gặp một người có lỗi mà hối cải thì trên trời vui mừng hơn gặp 99 vị tu hành. Cụ Hồ nói rằng “người Việt Nam ai cũng yêu nước, muốn nước thống nhất độc lập, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên thành ngọn lửa”.[8]
b. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng,phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con người.[1]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy".[3] Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Qua đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người - động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.
Để phát huy vai trò động lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào các động cơ thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người. Đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác, như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn".
Là nhà duy vật macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi". Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ[7].
3.2 CHIẾN LƯỢC HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN ĐIỂM “TRỒNG NGƯỜI”
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người:
Trong sự nghiệp trồng người của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa vô cùng giản dị mà đúng đắn về “con người”. Theo quan điểm của Người, “người” ở đây có ý nghĩa chính là gia đình, anh, em , bạn bè, cũng có nghĩa là cả dân tộc hay sâu xa hơn là cả thế hệ của loài người khắp thế giới và châu lục. Hồ Chí Minh không thừa nhận con người trừu tượng, con người không bao giờ tồn tại ở một khía cạnh, một c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_con_nguoi_moi__6919.doc