Tư tưởng chủ quyền nhân dân trong tác phẩm khế ước xã hội của J.J.Rousseau

Rousseau là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của Pháp thế kỷ XVIII. Người đã

đặt nền móng tư tưởng quan trọng cho cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 là quá trình

đấu tranh cho tự do,dân chủ trên thế giới.

Trong các tác phẩm của Rousseau. Khế ước và xã hội có ý nghĩa hơn cả, nó gắn

liền với tên tuổi và sự nghiệp của ông. Tác phẩm này cùng với tác phẩm của các

nhà tư tưởng cùng thời như J.Lockc, S.Montesquieu đã tạo ra sức mạnh tinh thần

cho các cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ ớ thế kỷ XVIII. Cho đến ngày

nay, nhiều nội dung trong tác phẩm ấy vẫn được kế thừa đã được nêu trong các

văn kiện chính trị quan trọng như một tinh thần cách mạng đối với nhân loại.

Trong Khế ước và xã hội,chủ quyền nhân dân là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm.

pdf13 trang | Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tư tưởng chủ quyền nhân dân trong tác phẩm khế ước xã hội của J.J.Rousseau, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng chủ quyền nhân dân trong tác phẩm khế ước xã hội của J.J.Rousseau Rousseau là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại của Pháp thế kỷ XVIII. Người đã đặt nền móng tư tưởng quan trọng cho cuộc Đại cách mạng Pháp 1789 là quá trình đấu tranh cho tự do, dân chủ trên thế giới. Trong các tác phẩm của Rousseau. Khế ước và xã hội có ý nghĩa hơn cả, nó gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của ông. Tác phẩm này cùng với tác phẩm của các nhà tư tưởng cùng thời như J.Lockc, S.Montesquieu đã tạo ra sức mạnh tinh thần cho các cuộc cách mạng tư sản diễn ra mạnh mẽ ớ thế kỷ XVIII. Cho đến ngày nay, nhiều nội dung trong tác phẩm ấy vẫn được kế thừa đã được nêu trong các văn kiện chính trị quan trọng như một tinh thần cách mạng đối với nhân loại. Trong Khế ước và xã hội, chủ quyền nhân dân là tư tưởng xuyên suốt tác phẩm. 1) Khế ước xã hội là cơ sở, nguồn gốc của xã hội dân sự và chủ quyền nhân dân Cũng như những nhà tư tưởng của trường phái pháp quyền tự nhiên, Rousseau giải thích sự hình thành xã hội và nhà nước trên quan điểm của thuyết quyền tự nhiên và thỏa thuận xã hội. Rousseau đặt vấn đề cần phải có một khế ước hay một công ước xã hội khi con người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên như các động vật khác để trớ thành con người dân sự trong xã hội. Nhưng đế tìm ra những yếu tố hợp lý làm nền tảng cho một liên hợp chính trị chính đáng, theo Rousseau, người ta phải tìm hiểu về tở chức đầu tiên của loài người - tổ chức đời sống trong trạng thái tự nhiên trước khi bước vào tổ chức của con người, để có thể biết được lý do tại sao con người liên kết với nhau. Rousseau giả định rằng con người trong trạng thái tự nhiên là tự do bình đẳng nhưng do phải đối mặt với tự nhiên, con người gặp phải nhiều thử thách quá lớn không thể tự vượt qua. Có thể một lúc nào đó sức mạnh bên ngoài lấn át cá nhân và sự tự do tự nhiên cũng có thế bị lạm dụng và đưa đến tình trạng mất an ninh. Vậy phương pháp duy nhất đế con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng được điều khiển bằng một động cơ chung. khiến cho mọi người đều hành động một cách hài hòa. Kết quả của hình thức tổ chức này là không ai bị mất cái gì cả, ngược lại, mọi người đều được bảo đảm an ninh bởi sức mạnh của cộng đồng. Đó là vấn đề cơ bản mà Khế ước và xã hội đề ra cách giải quyết. Như vậy, xã hội dân sự được hình thành trên cơ sở những liên kết chính trị của các cá nhân bình đẳng. Rousseau cho rằng quyền dân sự của con người chỉ xuất hiện khi hình thành xã hội cho nên con người phải trao quyền hành lại cho cộng đồng khi liên kết với nhau. Toàn thể thành viên trong cộng đồng xã hội sẽ trở thành một tập thể chính trị với quyền hành tối thượng. Quyền hành tối thượng này thuộc về cộng đồng thay vì một cá nhân hay một nhóm lãnh đạo. Cộng đồng khó có thẻ xây dựng quyền lực tối thượng nếu các thành viên trong cộng đồng đều đòi giữ lại quyền hành của cá nhân mình. Nếu mọi người đều tự ý làm theo ý muốn của cá nhân thì xã hội sẽ trở nên hồn loạn và loài người sẽ quay trở lại trạng thái tự nhiên. Do vậy, khi tham gia vào khế ước xã hội, con người phải từ bỏ quyền tự do sống theo cảm xúc cá nhân mang tính cách phản xã hội. Quyền tự do sống theo ý muốn riêng và quyền làm chủ tất cả những gì mà sức mạnh cá nhân cho phép không phải là quyền tự do chân chính. Vậy thì bước vào xã hội dân sự, con người mất đi cái tự do thiên nhiên và cái quyền hạn chế được làm những điều muốn làm mà không làm được. Nhưng mặt khác con người thu được quyền tự do dân sự và quyền sở hữu cái mà anh ta có. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân được toàn thể cộng đồng công nhận và toàn thể thành viên trong cộng đồng đều được bình đẳng dưới pháp luật. Sự ra đời xã hội dân sự đã làm cho con người trưởng thành hơn rất nhiều. Hàng loạt các mối quan hệ phức tạp cùng với quy mô ngày càng mở rộng của xã hội dân sự đã đặt ra những yêu cầu khách quan trong việc tổ chức quản lý đời sống xã hội. Chính yêu cầu khách quan đó đã đòi hỏi phải có một tổ chức bộ máy hợp lý để đảm bảo xã hội trong vòng trật tự. Khi đó, những thoả thuận của con người cũng là cơ sở cho mọi chính quyền hợp pháp. Thông qua công ước, mỗi người ủy một phần quyền của mình cho lãnh đạo tối cao mang ý chí chung và do đó trở thành thành viên của nó. Toàn bộ quyền lực được chuyển giao cho bộ phận cầm quyền được thiết lập từ các thành viên tham gia khế ước. Do đó chủ quyền thuộc về nhân dân. Chủ quyền nhân dân có hai đặc điểm là không thể ủy thác và không thể phân chia. Chủ quyền nhân dân, theo Rousseau là một thực thể thống nhất, nó không thể được đại diện bởi cá nhân nào mà là quyền lực được tận hành bới ý chí chung. Chủ quyền không thể chuyển giao cho cá nhân, nó luôn thuộc về nhân dân và không thể bị hạn chế bởi bất kỳ đạo luật nào. Tính tối cao của nhân dân thể hiện ở chỗ họ không bị ràng buộc bởi những luật lệ trước đó và vào mọi thời điểm họ có thể thay đối cả những thỏa thuận ban đầu của khế ước. Sự tự do và bình đẳng của những người tham gia khế ước là cái bảo đảm sự liên kết nhân dân vào một thực thể với những quyền lợi không thể đi ngược với những quyền lợi của từng cá nhân. Có thể nói, tư tưởng dân chủ đã xuyên suốt toàn bộ học thuyết của Rousseau về chủ quyền nhân dân. Rousseau đề ra tư tưởng quyền lực trực tiếp của nhân dân, tính tối cao của quyền lực nhân dân, từ đó ông đưa ra kết luận đề sự không thể chấp nhận việc đại diện nhân dân cản trở nhân dân thực hiện các quyền của mình. 2) Ý chí chung của nhân dân được công bố lên chính là luật pháp Trong xã hội dân sự, luật pháp không những có vai trò quan trọng đối với việc xác lập quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, mà còn là cơ sở để đo lường sự phải trái trong quan hệ giữa các thành viên xã hội và giữ cho xã hội trong vòng trật tự. Theo Rousseau, luật là những điều khoản của ý chí chung và bao giờ cũng mang tính tổng quát cho mọi người. Ý chí chung phản ánh lợi ích chung của cộng đồng và chính lợi ích chung của cộng đồng phải trở thành nền tảng của luật pháp. Thế nhưng ý chí chung muốn thật sự là ý chí chung thì phải là ý chí chung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chung sẽ mất đi sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về một đối tượng riêng lẻ nhất định". Như vậy, ý chí chung chỉ tính đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội sẽ phát hiện ra lợi ích chung của cộng đồng để xác định ý chí chung. Để xác định ý chí chung, người ta phải loại bỏ tất cả những ý kiến khác biệt của các thành viên trong xã hội để có thể tổng hợp được ý muốn chung. Rousseau phân biệt ý chí chung và ý chí của tất cả. ý chí của tất cả chỉ là sự tập hợp thuần túy những quyền lợi riêng rẽ, trong khi đó ý của chung được hình thành bằng cách loại bỏ trong tập hợp đó những quyền lợi triệt tiêu nhau. Đằng sau những suy luận toán học này là một vấn đề chính trị quan trọng: vấn đề hòa hợp những quyền lợi mâu thuẫn với nhau giữa các cá nhân, các đẳng cấp và toàn xã hội. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có thể thành công khi mà mọi người đều đưa ra ý kiến riêng với tư cách công dân của quốc gia thay vì trên tư cách thành viên của một thế lực riêng nào đó. Khi ý chí chung của toàn thể dân chúng được công bố, nó sẽ trở thành hành động của chủ quyền tối cao, đó tức là luật. Như vậy "luật chỉ là sự công bố của ý chí toàn dân, cho nên trong quyền lực lập pháp không ai có thể đứng ra thay mặt nhân dân để làm ra luật". Luật này phải có sự tham gia soạn thảo của tất cả dân chúng và chỉ có hiệu lực khi được đa số dân chúng thông qua, tuy nhiên Rousseau cũng đề cập đến việc bảo lưu ý kiến của thiểu số. Ông cũng cho rằng đa số chưa chắc đã đúng và thiểu số không hẳn là sai. Để cho đa số không bị nhầm lẫn, theo ông, phải công khai cung cấp đầy đủ thông tin cho dân chúng để họ tự bàn bạc và quyết định. Ông cũng lên tiếng cảnh báo thủ đoạn lợi dụng số đông, núp bóng tập thể để mưu lợi cho cá nhân. ông cho rằng mỗi người phải bỏ qua quyền lợi bè phái và hành động như một công dân của quốc gia khi đóng góp ý kiến, và xã hội phải loại bỏ những nhóm hay tổ chức với các mục tiêu phục vụ quyền lợi riêng biệt. 3) Về quyền lực tối cao và tổ chức bộ máy Nhà nước Theo lập luận của Rousseau, quyền lực tối thượng, chủ quyền nhân dân, quyền lập pháp là những cách gọi khác nhau của quyền lực tối cao. Quyền lực tối cao là quyền lực được điều hành bằng ý chí chung của tất cả dân chúng. Quyền lực này được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó, cho nên nó không có và không thể có lợi ích nào trái ngược với các thành viên... Quyền lực tối cao chỉ nhờ có tổ chức như trên mới tồn tại được, nên luôn luôn tự nó phải là tất cả những gì tạo ra nó". Do vậy, cơ thể chính trị có quyền lực tối cao phải là một "con người tập thể" và "con người tập thể" này có quyền tuyệt đối đối với các thành viên của nó. Tuy nhiên, quyền lực tối cao không thể vượt qua giới hạn của công ước tổng quát, tức là không thể vi phạm những thoả thuận mà con người đã xác lập. Quyền lực tối cao là thống nhất không thể phân chia. Thống nhất vì nó là ý chí chung của nhân dân, đại diện và bảo vệ lợi ích chung của nhân dân. Khẳng định tính bất phân của chủ quyền nhân dân, Rousseau loại trừ sự phân chia quyền lực như sự bảo đảm cho tự do chính trị. Ông phê phán các nhà chính trị trước đó và đương thời đã phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như những bộ phận tách rời. Theo ông, có sự sai lầm này là vì họ không xuất phát từ những khái niệm đúng đắn về quyền uy tối cao mà chỉ nắm lấy những biểu hiện bề ngoài, coi đó là các bộ phận của quyền uy tối cao. Thực chất, những bộ phận quyền hành được chia tách ra như vậy đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, môi bộ phận đều chỉ nhằm thực hiện ý chí tối cao đó. Để tránh tình trạng chuyên quyền và vô pháp luật, Rousseau cho rằng chỉ cần: 1) Giới hạn thẩm quyền của các cơ quan lập pháp và hành pháp, 2) Sự phục tùng của chính quyền hành pháp đối với chủ quyền nhân dân. Như vậy, Rousseau đã đặt tư tưởng giới hạn thẩm quyền của các cơ quan nhà nước đối lập với nguyên tắc phân chia quyền lực (Văn phòng Quốc hội, 2002. tr. 40 - 42). Quyền lực tối cao và quyền lực của công dân quan hệ với nhau: mỗi người ràng buộc với tất cả vì tất cả ràng buộc với mỗi người. Quyền của cơ quan tối cao là tuyệt đối là thiêng liêng cũng không và không thể vượt qua giới hạn của công ước tổng quát, tức là không thể vi phạm những thỏa thuận mà con người đã xác lập. Mặc dù phủ nhận quan điểm của Montesquieu về việc phân chia quyền lực thành các nhánh độc lập, Rousseau vẫn chủ trương phân chia chức năng của các cơ quan quyền lực trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thế nhưng. thực chất của sự phân quyền trong tư tưởng của Rousseau chỉ là phân quyền giữa hành pháp và tư pháp, còn lập pháp luôn được thực hiện một cách trực tiếp bởi toàn thể nhân dân với ông không bao giờ cho phép quyền lực tách rời khỏi nhân dân. Cơ quan lập pháp Khi bàn về cơ quan lập pháp, Rousseau cho rằng, "lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể có thể đạt tới, cơ quan lập pháp bao gồm toàn thể nhân dân hội họp thường xuyên sẽ đưa ra ý muốn chung của quốc gia. Lập pháp, trong quan niệm của ông. chính là chủ quyền quốc gia - đấy chính là ý chí của nhân dân có chủ quyền và vì vậy nó phải điều chỉnh những vấn đề chung nhất, liên quan đến tất cả mọi người. Cơ quan này có nhiệm vụ đặt ra một Hiến pháp và đưa ra một hệ thống pháp luật cho quốc gia. Cơ quan lập pháp sẽ thành lập Chính phủ để phụ trách vai trò hành pháp cũng như đề nghị phương pháp lựa chọn các vị thẩm phán vào cơ quan tư pháp. Rõ ràng, Rousseau đã đặt lập pháp ở vị trí cao nhất, chi phối các quyền lực khác. Nó mới là sự thể hiện trực tiếp nhất của ý chí nhân dân, của quyền lực tối cao. Chủ quyền nhân dân thể hiện trong quyền lập pháp của nhân dân. Tranh luận với Montesquieu, Rousseau chứng minh ráng tự do chính trị chí có thì có trong một nhà nước nơi nhân dân có quyền lập pháp trực tiếp. Theo ông, tự do thế hiện ở chỗ công dân được luật pháp bảo vệ và tự mình được ban hành luật. Do vậy mà luật chỉ là những điều kiện chính thức của việc tập hợp dân sự. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật. Để lập pháp thực sự là cơ quan quyền lực tối cao. Rousseau đòi hỏi mọi người phải tham gia chính sự vì đó là quyền hạn cũng như trách nhiệm của công dân. Cơ quan lập pháp phải phản ánh ý muốn chung của toàn dân chứ không phải ý muốn của các đại diện nhân dân. Để thuận lợi cho việc lập pháp, quốc gia cần đến những nhà lập pháp thông thái, có khả năng đưa ra những dự luật phản ánh ý chí chung để nhân dân biểu quyết. Nhà lập pháp phải có khả năng thuyết phục nhân dân chấp thuận các dự luật bởi vì nhà lập pháp không có quyền sai khiến nhân dân làm theo ý muốn của mình. Cơ quan hành pháp Cơ quan hành pháp (còn được gọi là Chính phủ) được thành lập trên cơ sở của luật pháp chứ không phải trên cơ sớ của khế ước như cơ quan lập pháp. Bất cứ hình thức nào của cơ quan hành pháp đều phải phục vụ cơ chế dân chủ. tức cơ quan lập pháp - cơ quan thể hiện ý chí chung và quyền lực tối cao. Chính phủ do cơ quan lập pháp đặt ra là một cơ thể trung gian giữa các thần dân với cơ quan quyền lực tối cao, để hai bên tương ứng với nhau, thi hành các luật, giữ gìn quyền tự do dân sự cũng như tự do chính trị. Những người được nhân dân ủy thác nắm quyền hành pháp không phải là ông chủ của nhân dân mà chỉ là những công chức. Những người này phải hành động trong khuôn khổ của pháp luật và nằm dưới sự giám sát thường xuyên của cơ quan lập pháp nắm quyền lực tối thượng. Dân chúng có thể cất nhắc hay bãi miễn họ. Cơ quan lập pháp hay tập thể nhân dân tối thượng có thể ban hành, sửa đổi luật lệ bầu cử Chính phủ cũng như thay đổi bộ máy hành pháp bất cứ lúc nào. Việc tổ chức Chính phủ, theo Rousseau, là "phải sắp xếp thế nào để luôn luôn có thể sẵn sàng hy sinh Chính phủ vì nhân dân chứ không phải hy sinh nhân dân vì Chính phủ. Nhưng ông cũng cảnh báo rằng, mỗi lần thay đổi hình thức Chính phủ đều là nguy hiểm và chỉ nên thay đổi Chính phủ khi nó không thể dung hòa với quyền lợi chung. Khi bàn về xu hướng lạm quyền, thoái hóa của quyền lực hành pháp và biện pháp khắc phục, Rousseau cho rằng các thứ Chính phủ trên đời, một khi nắm được quyền lực công cộng đều tìm cách lạm dụng, thoán đoạt quyền lực tối cao của toàn dân. Đó là vì "ý chí riêng thường hay tác động ngược lại ý chí chung, cho nên Chính phủ cũng thường hay có hướng làm trái với quyền lực tối cao của dân chúng". Do không có một ý chí nào có thể cưỡng lại để cân bằng với xu hướng ấy của Chính phủ nên sớm muộn Chính phủ sẽ lấn át quyền lực tối cao của nhân dân, phá hoại hiệp ước xã hội. Biểu hiện của điều đó là khi người cầm đầu Chính phủ không chịu cai trị theo pháp luật lấn át cơ quan quyền lực tối cao hoặc là các thành viên trong Chính phủ không tốt, môi người thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ. Theo ông, đó là mối nguy hại cố hữu, tiềm tàng trong một cơ thể chính trị từ khi nó mới hình thành. Để ngăn chặn nguy cơ Chính phủ tiếm quyền, theo Rousseau, phải áp dụng một biện pháp triệu tập hội nghị định kỳ toàn dân với mục đích làm rõ hai câu hỏi: “Một là, toàn dân có muốn giữ nguyên hình thức Chính phủ hiện hữu hay không?, Hai là, nhân dân có vừa lòng với sự cai trị của những người hiện đang được uỷ thác hay không". Với biện pháp như vậy, Chính phủ sẽ luôn bị đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân, và nhân dân có quyền chấp nhận hay chối bỏ Chính phủ bất cứ lúc nào. Cơ quan tư pháp Bên cạnh vai trò các cuộc bầu cử của nhân dân nhằm bảo vệ ý chí chung, Rousseau còn nêu lên một cơ chế cụ thể để bảo vệ ý chí chung của nhân dân, đó là tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp. Cơ quan này nó cũng do cơ quan lập pháp (nhân dân) lập nên. Vai trò của cơ quan tư pháp là bảo tồn luật và các quyền lập pháp. Ngoài ra, cơ quan tư pháp còn là trọng tài giữa nhân dân và chính quyền, bảo vệ cho cả hai phía có thể ngăn chặn các hành động gây hại cho bất cứ phía nào. Cơ quan tư pháp không được có một chút quyền lập pháp hay hành pháp nào cả. Nhưng chính do đó mà cơ quan tư pháp có quyền cao hơn cả vì nó không làm gì cả nhưng lại có thể ngăn ngừa được tất cả. Đó là cơ quan thiêng liêng nhất là được coi trọng nhất vì nó là người bảo vệ luật mà từ luật là do cơ quan quyền lực tối cao ban hành là do Chính phủ chấp hành. Khi bàn về vai trò của chức quan tư pháp, Rousseau cho rằng, luật pháp công bố ý chí của toàn dân. chức quan tư pháp nói lên lời phán xét công cộng. Dư luận công chúng là một thứ luật mà cơ quan tư pháp là người chấp hành. Tòa án tư pháp không phải là người trọng tài xét xử dư luận công chúng, nó chi là người công bố dư luận công cộng mà thôi. Xa rời chức năng đó thì mọi quyết định của toà án đều không khách quan là không có hiệu lực. Tuy nhiên. Rousseau cũng cảnh báo rằng cơ quan tư pháp thường có xu hướng bênh v ực bên mạnh và xem thường bên yếu. Cơ quan tư pháp sẽ trở nên lộng quyền khi nó chiếm lấy quyền hành pháp mà chính nó là kẻ điều hòa. Cơ quan tư pháp cũng sẽ lộng quyền nếu nó đứng ra ban bố luật pháp mà chính nó là kẻ báo vệ". Theo Rousseau, muốn ngăn ngừa cho một cơ quan có ý nghĩa trọng đại như cơ quan tư pháp khỏi bị thoán đoạt, chỉ có cách là đừng để cho nó trở thành thường trực mãi, mà phải quy định thời hạn cho nó". Qua phân tích tổ chức quyền lực như trên có thể thấy Rousseau luôn nhấn mạnh yếu tố dân chủ trực tiếp trong mọi quá trình tổ chức quyền lực nhà nước: Toàn thể dân chúng là cơ quan lập pháp với chủ quyền tối thượng, hành pháp và tư pháp đều do lập pháp lập ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Để quyền lực không bị tha hóa, Rousseau không chỉ thiết lập hệ thống kiểm soát quyền lực từ phía nhà nước, mà còn nhấn mạnh vấn đề kiểm soát quyền lực từ phía xã hội và không bao giờ cho phép quyền lực tách rời khỏi nhân dân. Đây là điểm rất tiến bộ mà ngày nay nhiều Nhà nước hiện đại đã kế thừa trong tổ chức và thực thi quyền lực của mình. Tóm lại, chúng ta đang trong quá trình tìm hiệu, xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp quyền, đảm bảo và phát huy những giá trị dân chủ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về Rousseau cũng như tư tưởng cửa ông có ý nghĩa quan trọng. Nó không chỉ giúp chúng ta hiểu đúng vấn đề mà còn giúp chúng ta kế thừa được những giá trị tích cực trong tư tưởng của ông, khắc phục những hạn chế đang tồn tại trong việc tổ chức và thực thi quyền lực Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính một cách có hiệu quả, đảm bảo quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf78_6394.pdf
Tài liệu liên quan