Tự tử ở trẻ em vị thành niên (VTN) là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và các yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ VTN.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 02 năm
(từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006). - Tuổi trung bình: 17,2, nhóm tuổi 17 – 19 tuổi chiếm 82%; nữ 55%,
nam 45%, 50% là học sinh. Phương tiện tự tử: 97,5% tự tử bằng hóa chất độc, trong đó thuốc trừ sâu chiếm
35%, thuốc dưỡng cây 6,7%, thuốc chuột 9,7%, thuốc tân dược 35%. có 2,5% tự tử bằng cách tự gây thương
tích. 50% tự tử vào buổi trưa và chiều, 33,3% tự tử vào buổi tối, 16,7% vào buổi sáng, 80% không báo cho gia
đình hành vi tự tử của mình. - Yếu tố thúc đẩy: 67% mâu thuẫn với cha mẹ, 10% thất bại trong học tập, 66%
trục trặc trong tình yêu, 5,8% mâu thuẫn với bạn bè, 1,5% biết mình bị HIV/AIDS, 6,6% sau khi uống rượu
say, 2,5% uống quá liều thuốc động kinh. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị thích hợp nhằm phòng
chống hữu hiệu tình trạng tự tử ở trẻ em VTN.
9 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tự tử ở trẻ vị thành niên tại bệnh viện đa khoa tiền giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề Nhi Khoa 1
TỰ TỬ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TIỀN GIANG
Tạ Văn Trầm*, Trần Thanh Hải*, Huỳnh Công Thanh*
TÓM TẮT
Tự tử ở trẻ em vị thành niên (VTN) là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và các yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ VTN.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 02 năm
(từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006). - Tuổi trung bình: 17,2, nhóm tuổi 17 – 19 tuổi chiếm 82%; nữ 55%,
nam 45%, 50% là học sinh. Phương tiện tự tử: 97,5% tự tử bằng hóa chất độc, trong đó thuốc trừ sâu chiếm
35%, thuốc dưỡng cây 6,7%, thuốc chuột 9,7%, thuốc tân dược 35%... có 2,5% tự tử bằng cách tự gây thương
tích. 50% tự tử vào buổi trưa và chiều, 33,3% tự tử vào buổi tối, 16,7% vào buổi sáng, 80% không báo cho gia
đình hành vi tự tử của mình. - Yếu tố thúc đẩy: 67% mâu thuẫn với cha mẹ, 10% thất bại trong học tập, 66%
trục trặc trong tình yêu, 5,8% mâu thuẫn với bạn bè, 1,5% biết mình bị HIV/AIDS, 6,6% sau khi uống rượu
say, 2,5% uống quá liều thuốc động kinh. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị thích hợp nhằm phòng
chống hữu hiệu tình trạng tự tử ở trẻ em VTN.
ABSTRACT
STUDY ON ATTEMPTING SUICIDE STATUS AMONG ADOLESCENT PATIENTS
AT TIENGIANG GENERAL HOSPITAL
Ta Van Tram, Tran Thanh Hai, Huynh Cong Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 147 – 153
Suicide among adolescent is considered as a burning health problem in every countries around the world.
Objective: To decribe the epidemiological characteristics of attempting suicide factors poromoting
attempting suicide among adolescent
Method: retrospective descriptive study
Results: Including 120 adolescents attempting suicide received emergenuy treatment at Tiengiang General
Hospital in peroid of 2 years, from 2005 to 2006. The average age of the children was 17.2 years, group of 17 – 19
years accounted for 82%; Female accounted 55%, male accounted 45%; 50% of them were pupils. Means for
attempting suicide: 98% used poisonous chemicals, in which 41.5% used pesticides, 1.7% used rodenticides,
6.7% used plant growth hormones, and 35% used medicines, 2.5% self – infliction, 8.3% herbicides. 50% of the
cases occurred at noon and afternoon, 16.7% occurred in the morning and 33,3% occurred at night. Factors
promoting the attempting suicides: 67% conflict with their parents, 10%failure in learn study, 1.5% fall ills,
6.6% break – up with lovers, 5.8% conflict with friends. Appropriate measures are recommended by the author in
this study for attempting suicide prevention among adolescents.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vị thành niên là những người trong độ tuổi
10 – 19. Tuổi VTN là thời rạng đông của một đời
người, là giai đoạn đẹp nhất của một cuộc đời.
Biết bao điều kỳ diệu đến với tuổi VTN và cũng
có những băn khoăn, bối rối trước sự thay đổi về
cơ thể và tâm sinh lý. Việc hiểu biết một cách
đầy đủ về lứa tuổi VTN, các em sẽ có hành vi
đúng để chủ động bảo vệ sức khỏe của mình
hôm nay và chuẩn bị tốt cho cuộc sống tương
lai1. Nhưng nếu sống trong một môi trường
không tích cực, như không được người lớn và
bạn bè tin cậy, lo lắng thái quá về kết quả học
tập, thất vọng trong tình yêu, hụt hẫng trong các
mối quan hệ hoặc xích mích với cha mẹ, bạn bè,
hoặc tìm đến rượu, thuốc lá, ma túy... trẻ VTN
dễ bị tổn thương tâm lý. Các trẻ VTN có thể bất
chấp tất cả để được “sống như mình muốn” và
lúc đó, tai họa tự tử có thể xảy ra. Tự tử là một
vấn đề y tế quan trọng ở các nước trên thế giới(2).
* Bệnh Viện Đa Khoa Tiền Giang
Chuyên đề Nhi Khoa 2
Ở lứa tuổi VTN, tự tử là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong. Tại Pháp,
năm 1993, có 13.000 trường hợp trẻ VTN tử vong
do tự tử. Những hành vi tự tử gây nguy hiểm
cho nạn nhân và thường để lại nhiều di chứng
trên cơ thể và tâm lý lâu dài(4,5). Ở nước ta hiện
nay, tự tử ở trẻ VTN rất thường gặp trong đời
sống xã hội, là nguyên nhân gây tử vong đáng
tiếc và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức
khỏe và tinh thần(7,8). Xuất phát từ thực tế đó,
chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu
tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ của các trẻ VTN tự
tử, một số yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ
VTN. Qua đó, đề xuất một số biện pháp điều trị
và ngăn ngừa tự tử ở trẻ VTN ở nước ta.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
- Tất cả các trường hợp tự tử ở trẻ VTN được
cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong
2 năm, từ 01/01/2005 đến 31/12/2006.
- Dữ kiện được thu nhận vào biểu mẫu soạn
sẵn và xử lý dữ kiện bằng chương trình Epi –
Info 6.
KẾT QUẢ
Giới
Nam: 54 (45 %); Nữ 66 (54%).
Tuổi
Bảng 1: Phân bố theo tuổi
Lứa tuổi Số ca Tỷ lệ %
10 – 13 tuổi 5 4%
14 – 16 tuổi 17 14%
17 – 19 tuổi 98 82%
Trẻ từ 17 – 19 tuổi tự tử nhiều, chiếm tỷ lệ 82%.
Nghề nghiệp.
Bảng 2: Nghề nghiệp.
Nghề nghiệp Số ca Tỷ lệ %
Học sinh 60 50%
Làm ruộng vườn 24 20%
Nội trợ 12 10%
Làm mướn 14 12%
Khác 10 8%
Địa chỉ
Bảng 3: Địa chỉ.
Địa chỉ Số ca Tỷ lệ %
- Mỹ Tho 26 21%
- Châu Thành 47 40%
- Chợ Gạo 17 14%
- Cai Lậy 11 9%
- Huyện khác 13 11%
- Tỉnh khác 6 5%
Tình huống xung đột cấp
Bảng 4: Yếu tố thúc đẩy
Yếu tố thúc đẩy Số ca Tỷ lệ %
- Bị cha mẹ la rầy 80% 67%
- Bị điểm kém, lưu ban 12 10%
- Thất tình 8 6,6%
- Buồn bạn bè, cãi nhau 7 5,8%
- Sau uống rượu 8 6,6%
- Biết mình nhiễm HIV/AIDS 2 1,5%
- Đang điều trị động kinh 3 2,5%
Phương tiện tự tử
Bảng 5: Phương tiện tự tử
Phương tiện tự tử Số ca Tỷ lệ %
1) Thuốc:
- An thần, thuốc ngủ 20 16,5%
- Cảm sốt 11 9%
- Kháng Histamin 5 4%
- Kháng sinh 2 1,5%
- Khác 5 4%
2) Hóa chất:
* Thuốc trừ sâu
- Phospho hữu cơ 39 32,5%
- Carbamat 6 5%
- Chlor hữu cơ 5 4%
* Thuốc diệt cỏ 10 8,3%
* Nước rửa bồn cầu 2 1,7%
* Dầu hỏa 2 1,7%
* Thuốc dưỡng cây 8 6,7%
* Thuốc diệt chuột 2 1,7%
3) Tự gây thương tích 3 2,5%
Cách tự tử
Bảng 6: Cách tự tử
Cách tự tử Số ca Tỷ lệ %
- Uống 117 97,5%
- Tự gây thương tích 3 2,5%
- Tiêm chích 0 0
- Khác 0 0
Chuyên đề Nhi Khoa 3
Thời điểm tự tử
Bảng 7: Thời điểm tự tử
Thời điểm Số ca Tỷ lệ %
- Sáng (6 giờ - 12 giờ) 20 16,7%
- Trưa (12 giờ - 16 giờ) 32 26,7%
- Chiều (16 giờ - 19 giờ) 28 23,3%
- Tối (19 giờ - 6 giờ) 40 33,3%
Địa điểm tự tử
Bảng 8: Địa điểm
Địa điểm Số ca Tỷ lệ %
- Tại nhà 108 90%
- Nơi hoang vắng 12 10%
Hành vi sau tự tử
Bảng 9: Hành vi sau tự tử
Hành vi Số ca Tỷ lệ %
- Không làm gì đến khi gia đình phát hiện. 94 78%
- Báo cho mọi người biết. 14 12%
- Xa lánh mọi người. 12 10%
Hậu quả
Bảng 10: Hậu quả
Hậu quả Số ca Tỷ lệ %
- Sống 111 92,5%
- Chết 9 7,5%
BÀN LUẬN
Tuổi
Trong độ tuổi VTN, còn chia ra làm 3 nhóm:
từ 10 – 13 tuổi là giai đoạn đầu VTN, 14 – 16 tuổi
là giai đoạn giữa VTN và 17 – 19 tuổi là giai
đoạn cuối VTN. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, tự tử tăng dần theo tuổi, nhiều nhất là nhóm
tuổi cuối VTN, 17 – 19 tuổi (82%). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của các tác giả khác trên
thế giới và trong nước(5,7,8,9). Với tuổi 10 – 13 tuổi,
quan niệm về tự tử của trẻ còn mơ hồ và không
rõ ràng. Nguy cơ tăng dần khi trẻ ở tuổi giữa
VTN; ý nghĩ và hành vi tự tử nhiều hơn do
những biến đổi sâu sắc về tâm lý và thể chất.
Nhóm tuổi tự tử nhiều nhất là nhóm tuổi cuối
VTN. Ở nhóm tuổi này, nếu trẻ có nhân cách
vững vàng, ổn định, thường ít có nguy cơ tự tử,
và ngược lại, ở trẻ có nhân cách lệch lạc, yếu
đuối, trầm cảm, thường dễ có nguy cơ tự tử hơn.
Nhân cách được hình thành từ một quá trình lâu
dài với tác nhân là môi trường sống và nền giáo
dục(1,2).
Giới
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nam/nữ là 1/1,22
so với các tác giả khác, tỉ lệ nam/nữ trong
khoảng 1/2 – 2/35,6,7. Các trẻ nữ VTN dễ có nguy
cơ tự tử hơn, do các bé gái dậy thì sớm hơn,
thường nhạy cảm với những thay đổi trong
không khí của gia đình, dễ bị mặc cảm tủi phận,
bị bỏ rơi và thường xuyên có cảm giác lo lắng,
đặc biệt là các em hay bị lầm lẫn giữa tình yêu
đích thực và tình bạn khác giới thân thiết. Khi đã
nhận ra 2 loại tình cảm này, các VTN thường
thất vọng và đau khổ, thường không kiềm chế
được cảm xúc và sự đam mê, dễ dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc (quan hệ tình dục và có thai
ngoài ý muốn) hoặc dễ bị lạm dụng tình dục.
Điều này làm cho trẻ VTN nữ có ý định tự tử rất
cao khi sự việc xảy ra(1,2).
Nghề nghiệp
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù học
sinh chiếm tỷ lệ cao nhất là 50%, nhưng điều này
nói lên rằng chỉ có một nửa trẻ VTN tự tử là
được học hành tử tế, còn lại các em vào đời quá
sớm, có 42% trẻ VTN trong nhóm nghiên cứu
nghỉ học ở nhà làm ruộng vườn, hoặc làm
mướn, nội trợ và 8% là không làm gì cả. Hiện
nay Nhà nước ta đang có những chính sách hỗ
trợ đặc biệt, ưu tiên cho đào tạo nghề cho các
em, để giúp các em không thi đậu tốt nghiệp
phổ thông trung học hoặc không đậu vào các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp có điều kiện theo học văn hóa và học
nghề tiếp tục, nhằm cung ứng cho xã hội lực
lượng lao động đã qua đào tạo nghề dồi dào và
hạn chế tình trạng trẻ VTN vào đời quá sớm với
nhiều nguy cơ, cạm bẫy về các bạo lực tình dục,
tệ nạn mãi dâm, ma túy dễ bị có thai ngoài ý
muốn, nạo phái thai không an toàn... Tất cả sẽ để
lại những hậu quả xấu về sức khỏe, tâm lý và xã
hội và là yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến hành vi tự
tử ở các em VTN.
Chuyên đề Nhi Khoa 4
Địa chỉ
Trẻ VTN tự tử ở rải rác khắp các huyện, thị,
thành phố trong tỉnh và các tỉnh lân cận nhưng
nổi trội nhất là ở các huyện Châu Thành, Chợ
Gạo và Thành phố Mỹ Tho. Có thể do các nơi
này nằm ở gần Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang,
thuận lợi cho việc chuyển viện, ngoài ra, ở 2
huyện Châu Thành và Chợ Gạo, đa số người
dân là sống bằng nghề nông, ít có thời gian quan
tâm, chăm sóc đúng mức cho trẻ nhằm phát hiện
những vấn đề tâm lý của trẻ để giúp đỡ kịp thời.
Yếu tố thúc đẩy
Nguyên nhân thường gặp nhất là do bất hòa
trong gia đình, bị cha mẹ la mắng (67%). Do tuổi
các em đang lớn, có những biến đổi sâu sắc về
thể chất và tâm lý nhưng chưa hoàn chỉnh. Do
vậy, quan hệ gia đình có vai trò to lớn trong việc
tạo nên cho trẻ những định hướng giá trị đúng
với chuẩn mực xã hội. Bất hòa trong gia đình tạo
nên tính cách bi quan, chán nản, dễ bực tức,
nóng nảy, bất cần. Những tình huống xung đột
xảy ra như bị cha mẹ la mắng, anh em cãi nhau,
bị đánh đòn, bị trừng phạt trước mặt mọi người,
bị rầy oan, bị trách móc khi trẻ đi chơi về
khuya... tức tối vì sự bất công của cha mẹ, sự bất
hòa với người thân, trẻ VTN dễ dàng tự tử. Về
phương diện xã hội, khi có những hành động
thiếu kiềm chế, trẻ không chỉ chống lại bản thân
mình thông qua việc làm tổn thương mình mà
còn chống lại cha mẹ, chống lại cộng đồng nên
trẻ VTN có những hành vi sai lệch là nạn nhân
của chính mình và là những nạn nhân của thiếu
sót, những diễn biến không tích cực của xã hội,
đặc biệt là các thiếu sót của gia đình. Do vậy,
việc tìm cách hạn chế những hành vi nông nổi và
đầy nguy cơ bất thường này không phải chỉ là
việc giúp trẻ VTN có kỹ năng sống thích hợp,
giúp các em biết cách làm chủ cảm xúc mà còn
trách nhiệm của người lớn nói chung. Bên cạnh
nguyên nhân bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ
rầy la, thì các yếu tố thất bại trong học tập như bị
điểm kém, bị thi rớt, bị lưu ban cũng là yếu tố
dẫn các em đến tự tử. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, cũng gặp 33 % các trường hợp trẻ tự
tử là do kích động mạnh sau uống rượu kèm với
những bế tắc trong cuộc sống trước đó, hoặc do
thất tình, đổ vỡ trong tình cảm bạn bè, trong tình
yêu chưa chín chắn, hoặc cãi nhau với bạn bè...
Có 2 trường hợp sau khi biết mình bị nhiễm
HIV/AIDS, các em không vượt qua nỗi đau khổ
và đã uống thuốc tự tử.
Nhân cách của trẻ VTN được hình thành từ
một quá trình lâu dài với tác nhân là môi trường
và nền giáo dục. Trong gia đình, trẻ chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ cha mẹ, còn trong xã hội, trẻ
chịu ảnh hưởng nhiều từ thầy cô giáo, bạn bè,
hàng xóm... Các mâu thuẫn do cha mẹ quá khắt
khe, thường hay la mắng khiến trẻ hiểu lầm là
cha mẹ không thương, ghét bỏ hoặc cha mẹ đặt
quá nhiều kỳ vọng vào trẻ mà không quan tâm
xem trẻ có khả năng đạt được hay không, hoặc
trẻ đòi hỏi điều gì mà không được cha mẹ đáp
ứng. Gia đình là nơi định hướng nhân cách, là sự
hình thành các yếu tố tâm lý của trẻ. Vì vậy, khi
nghiên cứu các nguyên nhân tâm lý tự sát ở tuổi
VTN thường là do mâu thuẫn giữa các em với
gia đình, nhất là cha mẹ của trẻ.
Do vậy, việc giáo dục tính tự lập cho trẻ
ngay từ nhỏ giúp các em có thể tự mình chống
đỡ với các yếu tố nguy cơ stress và vượt qua
khó khăn tâm lý của chính mình. Sự xuất hiện
đúng lúc của cha mẹ, các thầy cô giáo, của tổ
chức đoàn thể, của bạn bè giúp các em giải
quyết các khó khăn về tâm lý, giúp cho các em
tự mình đứng dậy hoặc tìm người tâm sự.
Trong các trường học rất cần có một phòng tư
vấn tâm lý học đường, trong các tổ chức Đoàn,
Hội cũng có trung tâm tư vấn trẻ VTN, thường
xuyên và đúng lúc giúp các em giải tỏa những
áp lực tâm lý.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Lê Tuấn
Anh(9), cũng ghi nhận 87,8% trẻ em từ 10 – 15
tuổi tự tử là do những xung đột gia đình, trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thoa6 về ngộ
độc do ý định tự tử ở trẻ em, 68% là do bất hòa
trong gia đình và bị la rầy.
Chuyên đề Nhi Khoa 5
Phương tiện trẻ dùng tự tử
Nghiên cứu cho thấy 97,5% các trường hợp
tự tử bằng đường uống hóa chất hoặc thuốc,
2,5% các trường hợp là tự gây thương tích cho cơ
thể. Các trẻ sống ở các huyện, xã ven thành phố
có huynh hướng sử dụng hóa chất, đặc biệt hóa
chất bảo vệ thực vật làm phương tiện để tự tử.
Đa số dân ở vùng này đều sống bằng nghề nông,
hay trồng trọt, chăn nuôi, thường xuyên sử dụng
các hóa chất thuốc trừ sâu, các loại thuốc diệt cỏ,
diệt côn trùng, hoặc các hóa chất trị các bệnh cho
cây. Các hóa chất này thường có sẵn trong nhà,
trẻ dễ tiếp cận và dùng để tự tử. Các hóa chất trẻ
thường sử dụng là thuốc trừ sâu rầy
(Endosulfan, Thasodant, Basa, Bassan...), các loại
thuốc diệt cỏ (Paraquat, Chlo hữu cơ, 2, 4 – D,
Glyphosate), thuốc dưỡng cây... có trường hợp
tự tử bằng thuốc diệt côn trùng, dầu hỏa, thuốc
rửa bồn cầu...
Các trẻ VTN sống ở thành phố, thị xã, ít có
cơ hội tiếp xúc với các loại hóa chất nông nghiệp,
do đó, chúng thường dùng các loại thuốc (chiếm
35%) có sẵn trong các tủ thuốc gia đình. Thường
nhất là các loại thuốc hướng tâm thần (Seduxen,
Rotunda, aminazin), kế đến là các loại thuốc
giảm đau – hạ nhiệt (Paracetamol, Decolgen,
Aspirine, Panadol...) và một số loại thuốc thông
thường khác trong gia đình.
Có 3 trường hợp, các trẻ tự tử bằng cách tự
gây thương tích cho cơ thể. Các em đã dùng dao
đâm vào bụng sau khi bị la rầy và uống rượu.
Có 3 trường hợp đều không gây thương tích
nặng cho cơ thể và được cứu sống.
Thời điểm tự tử
Trong nghiên cứu này, thời điểm trẻ tự tử rải
rác trong ngày. Điều này cho thấy trẻ không có
khuynh hướng lựa chọn thời điểm tự tử, có thể
trẻ thực hiện hành vi ngay sau những xung đột
xuất hiện cấp thời. Tỷ lệ trẻ tự tử ở thời điểm tối
từ 19 giờ đến 6 giờ sáng nhiều hơn (33,3%) trùng
với thời điểm bị cha mẹ la rầy, la mắng sau một
ngày làm việc căng thẳng và mệt nhọc.
Chính những xung đột này, kết hợp với ý
tưởng tự tử đã có sẵn ở trẻ trong một thời gian
dài có thể dẫn đến hành vi tự tử. Tự tử trong
thời điểm sum họp gia đình, có cơ hội gặp
nhau giữa các thành viên trong gia đình là đặc
điểm của tự tử ở trẻ VTN. Khác với người lớn,
tự tử ít xảy ra vào ngày nghỉ, giờ nghỉ, do
những thời điểm này, ít gây chấn thương tâm
lý cho người lớn hơn là các thời điềm làm việc
căng thẳng ở cơ quan(3,6).
Địa điểm tự tử
90% trẻ VTN tự tử nơi dễ phát hiện,
thường là tại nhà. Chỉ có 10% trẻ VTN tự tử
nới vắng người. Một nghiên cứu của
Granboulan V3, 80% trẻ tự tử tại nhà, nguyên
cứu của Nguyễn Lê Anh Tuấn(7), cũng có kết
quả 97,6% trẻ tự tử tại nhà.
Điều này cho thấy trẻ không có ý lựa
chọn địa điểm để thực hiện hành vi tự tử.
Có thể là do trong độ tuổi VTN, môi trường
mà trẻ tiếp xúc và gắn bó nhất là tại nhà,
cũng có thể trẻ muốn tự tử tại nhà để phản
kháng, để chống cự, trả thù lại những xung
đột với cha mẹ mà trẻ luôn cảm thấy mình
bị thiệt thòi, bị rầy oan, và đây cũng là nói
lên một điều là trẻ tự tử là do những phản
ứng quá mức nhất thời khiến trẻ thực hiện
hành vi tự tử. Biết được điều này, các bậc
cha mẹ, các nhà tư vấn tâm lý trẻ VTN cần
quan tâm đến diễn biến tâm lý, hành vi của
các em để kịp thời “hạ hỏa” nếu có điều gì
bất ổn; là một hình thức thông thường để
giúp các em vượt qua khó khăn, giúp các em
giải tỏa mình bằng cách không nghĩ đến
chuyện ấy, hoặc đối mặt mọi chuyện bằng
cách viết ra nhật ký, khóc một trận cho thỏa
lòng...
Hành vi sau tự tử
Sau tự tử, 78 % trẻ không làm gì, cho đến khi
có triệu chứng thì người nhà phát hiện, chỉ có
12% báo cho người nhà, bạn bè biết mình đã
thực hiện hành vi tự tử, và 10 % các trường hợp
Chuyên đề Nhi Khoa 6
sau tự tử là trẻ xa lánh mọi người, vào phòng
riêng của mình. Kết quả này cho thấy tầm quan
trọng của người lớn khi xảy ra mối bất hòa, la
rầy, đánh đập các em, cần phải theo dõi diễn
biến tâm lý của các em, phát hiện những dấu
hiệu, hành vi tự tử của trẻ để có thể đưa đi bệnh
viện, xử lý kịp thời mới hy vọng làm giảm được
mức độ nặng của ngộ độc, giảm tỉ lệ tử vong và
những di chứng, những hậu quả nghiêm trọng
khác có thể xảy ra(11).
Hậu quả của tự tử
Trong nghiên cứu này, với 120 trường hợp
tự tử ở trẻ VTN, có 111 trẻ được cứu sống và 9
trẻ VTN tử vong.
Các trường hợp tử vong đều xuất phát từ
chuyện buồn gia đình, bị cha mẹ la rầy; trẻ thực
hiện hành vi tự tử bằng uống hóa chất độc liều
cao, gia đình phát hiện trễ và khi đến bệnh viện,
bệnh đã diễn biến nặng, tử vong dù đã được
điều trị tích cực. Trong 9 trường hợp tử vong có
5 trường hợp ngộ độc thuốc trừ sâu nặng (2
trường hợp ngộ độc phospho hữu cơ, 3 trường
hợp ngộ độc Chlor hữu cơ: Thiodan,
Endosulfan); có 3 trường hợp ngộ độc thuốc diệt
cỏ Paraquat với các triệu chứng ói ra dịch màu
xanh, hôi, gây loét miệng sớm và trẻ có biểu hiện
thiếu niệu,vàng da,thở nhanh dẫn đến tử vong.
Có 1 trường hợp ngộ độc nặng do uống chống
động kinh Phenobarbital liều cao.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 120 trường hợp tự tử ở trẻ
VTN tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang trong 2
năm 2005 – 2006, chúng tôi nhận thấy:
- Tuổi trung bình là 17,2; 82 % ở lứa tuổi sau
VTN (17– 19 tuổi). Trẻ nữ thường tự tử nhiều
hơn trẻ nam.
- Trẻ tự tử ở khắp các huyện, thị, thành phố
trong tỉnh và các tỉnh lận cận, 2 huyện Châu
Thành, Chợ Gạo và Thành Phố Mỹ Tho là có số
trường hợp tự tử cao. Phương tiện thường dùng
là hóa chất và thuốc men có sẵn ở mọi nhà. Yếu
tố thúc đẩy thường nhất là do bất hòa trong gia
đình, bị cha mẹ la mắng, kế đến là do thất bại
trong học tập, trong tình yêu, do rượu... Có 9
trường hợp trẻ VTN tử vong do tự tử phát hiện
muộn, bệnh diễn biến nặng.
- Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, tự tử
gây ra những hậu quả đáng tiếc mà nguyên
nhân dẫn đến là từ các tác nhân gây chấn động
tâm lý cho trẻ VTN, là lứa tuổi nhạy cảm, diễn ra
trong mỗi gia đình, chịu ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp của môi trường xã hội. Do đó, chiến
lược dự phòng hữu hiệu nhất là tăng cường
chăm sóc sức khoẻ ở trẻ VTN và nâng cao chất
lượng cuộc sống của trẻ VTN. Bởi lẽ, VTN là
những người chủ tương lai của đất nước ta.
KIẾN NGHỊ
- Cần hết sức chú ý đến tâm lý của trẻ VTN,
tránh những tác động ảnh hưởng đến danh dự
của con cái như đánh chửi con, gây áp lực nặng
nề trong học tập...
- Tăng cường các biện pháp chẩn đoán,
phát hiện sớm tác nhân ngộ độc, điều trị tích
cực để giảm bớt tỉ lệ tử vong và di chứng ngộ
độc do tự tử.
- Tăng cường giáo dục y tế, quản lý thuốc và
hóa chất chặt chẽ.
- Tham vấn tâm lý đối với trẻ VTN tự tử để
đề phòng tái phát tự tử. Đánh giá tâm lý của trẻ
VTN tự tử, lựa chọn các giải pháp thích hợp: liệu
pháp gia đình giúp cải thiện mối quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình, liệu pháp hành vi
nhằm giảm thiểu các yếu tố nguy cơ như sự
trầm cảm, các stress trong cuộc sống, giúp trẻ
vượt qua khó khăn, tự mình đứng dậy và sống
tốt.
- Tại cộng đồng, các biện pháp tâm lý cần
được xây dựng càng sớm càng tốt ở lứa tuổi đi
học, hướng vào sự quan tâm của gia đình, tạo
môi trường học đường, hoạt động đoàn thể lành
mạnh, giáo dục sức khỏe sinh sản VTN bằng
nhiều hình thức: tọa đàm, nói chuyện chuyên đề,
gặp gỡ các nhà chuyên môn... để rèn luyện cho
các em có được 1 kiến thức vững vàng, 1 ý thức
tự giác.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về vấn
Chuyên đề Nhi Khoa 7
đề tự tử ở trẻ VTN nhằm tìm ra các yếu tố nguy
cơ và các giải pháp hữu hiệu để phòng tránh
hiện tượng tự tử ở lứa tuổi này, mang lại cuộc
sống tốt đẹp cho các em
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế. Sức khỏe sinh sản vị thanh niên. Trong: Bác sĩ gia
đình. Nhà xuất bản Y học.
2. Cao Vũ Hùng, Hoàng Cẩm Tú, Nguyễn Viết Thêm (2007).
Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan trong bệnh rối
loạn trầm cảm tuổi vị thành niên. Tạp chí Y học thực hành, số
10 (581, 582) /2007), trang 57 – 59.
3. Daliow R (2000). Suicide and attempted suicide. Nelson
Texbook of pediatrics, 2000, p 86 – 88.
4. Đỗ Quang Vinh (2005). Mô tả hành vi toan tự sát bằng hoá
chất của trẻ VTN được cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.Hội nghị khoa học quốc gia về
phòng chống tai nạn thương tích lần thứ nhất.
5. Granboulan V, Rabain D, Basquin M (1995). The outcome of
adolescents suicide attempts. Acta psychiatr Scand 1995, 91:
265 – 70
6. Ludwig S (1997). Suicide, clinical manual of emergency
pediatrics, 1997, p.536 – 37.
7. Nguyễn Lê Anh Tuấn, Bùi Quốc Thắng (2003). Đặc điểm dịch
tễ học các trẻ tự tử nhập khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1
năm 2001 – 2002. Kỷ yếu Hội nghị Hồi sức, cấp cứu và chống
độc toàn quốc lần thứ IV, trang 256 – 263.
8. Nguyễn Quân (2004). Hỏi đáp sức khỏe và giới tính, tình yêu,
tình dục. Nhà xuất bản Thanh niên.
9. Nguyễn Thị Kim Thoa, Hoàng Trọng Kim (2004). Ngộ độc do
ý định tự tử ở trẻ em. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh,
tập 8, phụ bản của số 1, 2004, trang 30 – 32.
10. Rey GC, Narring F et al (1998). Suicide attempts among
adolescents in Switzerland: prevalence, associated factors and
comorbidity. Acta Psychiatr Scand 1998, 98: 28 – 33
11. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Tiền Giang
(2005).Chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Chuyên đề Nhi Khoa 8
Chuyên đề Nhi Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 147_715.pdf