Tự do hoá và vấn đề xác định nhịp độ mở cửa thị trường

Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược

doc21 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1123 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tự do hoá và vấn đề xác định nhịp độ mở cửa thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cầu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược. 1 Lời hứa của các tổ chức toàn cầu: 1.1 Lợi ích của toàn cầu hoá: thông qua thương mại quốc tế giúp các quốc gia tăng trưởng nhanh hơn, nhiều người trên thế giới sống lâu hơn và hưởng mức sống cao hơn trước đây, giảm đi tình trạng cô lập mà các nước đang phát triển thường gặp và tạo ra cơ hội tiếp cận tri thức cho nhiều người ở các nước đang phát triển… 1.2 Tác hại của toàn cầu hoá: làm gia tăng tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng trong xã hội, tự do hoá thị trường tài chính nhanh chóng trong khi chưa có các cơ chế cạnh tranh và kiểm soát đã dẫn tới khủng hoảng tài chính châu Á (1997), việc xoá bỏ các hàng rào thương mại để thị trường tự do cạnh tranh (không có sự điều tiết của chính phủ) đã gây thiệt hại lớn cho các nước đang phát triển bởi hàng hoá của họ sản xuất ra không thể cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài, việc nới lỏng kểm soát thị trường vốn ở Mỹ Latinh và châu Á đưa đến sự sụp đổ của hệ thống tỉ giá và sự suy yếu của hệ thống ngân hàng, môi trường bị huỷ hoại, tham nhũng gia tăng… 1.3 Những sai lầm của 3 tổ chức (IMF, WB, WTO) điều phối toàn cầu hoá: 1.3.1 Cơ sở hình thành IMF: IMF được thành lập trên cơ sở niềm tin thị trường thường là không hoàn hảo nhưng nó lại quá tin vào sự hoạt động hiệu quả của thị trường tự do và cần có áp lực quốc tế buộc các nước theo đuổi chính sách kinh tế tiền tệ -tài khoá mở rộng nhằm kích thích nền kinh tế thì IMF lại thường chỉ chấp nhận cho vay nếu các nước thực hiện chính sách tiền tệ -tài khóa khắc khổ (giảm thâm hụt ngân sách, tăng thuế, tăng lãi suất) dẫn tới sự thu hẹp nền kinh tế. Từ 2 nguyên nhân trên mà từ khi thành lập đến nay các chính sách của IMF đưa ra thường mang lại tác hại nhiều hơn là những lợi ích mà nó đem lại cho nền kinh tế toàn cầu. 1.3.2 Những sai lầm của IMF: Thứ nhất, do quá tin vào hiệu quả của tự do hoá mà nó thường xem nhẹ vai trò của chính phủ (luôn xem chính phủ là nguồn gốc của mọi vấn đề). Thứ hai, mặc dù IMF và WB – 2 tổ chức được lập ra với những mục đích khác nhau (nhiệm vụ của IMF là tập trung vào các vấn đề khủng hoảng, nhiệm vụ của WB là giải quyết các vấn đề cơ cấu kinh tế các nước) nhưng hoạt động thì ngày càng chồng chéo lên nhau (WB chỉ cho các nước vay khi có sự chấp thuận của IMF. Chính vì thế mà nó đã áp đặt một số điều kiện lên các quốc gia khi các nước này cần sự giúp đỡ của nó). Thứ ba, IMF đã đi quá xa giới hạn và khả năng của nó thay vì tập trung vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế vĩ mô. Nó cho rằng, các vấn đề cơ cấu đều ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và do đó sẽ ảnh hưởng tới ngân sách chính phủ hay thâm hụt thương mại. Vì vậy, nó cảm thấy mọi vấn đề đều nằm trong quyền quản lí của mình. Thứ 4, IMF là một tổ chức công đại diện cho các nước thì nó phải là một tổ chức độc lập và minh bạch nhưng trên thực tế các hoạt động của IMF không những bị chi phối bởi ý chí chung của các nước G7 mà còn bởi giới tư bản thương mại, tài chính ở nước đó. Thứ 5 là sự thiếu minh bạch – dân chủ trong việc thảo luận về các chiến lược giải pháp của tổ chức này cho các quốc gia đang phát triển. Như vậy, trong suốt nửa thế kỉ kể từ khi thành lập đến nay, IMF gần như đã thất bại trong sứ mệnh của nó. Lẽ ra, khi các nước gặp khó khăn về kinh tế thì nó phải trợ giúp tài chính cho các nước này phục hồi trạng thái gần toàn dụng lao động thì nó lại không thực hiện. Điều này đã dẫn tới khủng hoảng kinh tế nổ ra ngày càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Tồi tệ hơn, những chính sách mà IMF áp đặt, đặc biệt là tự do hoá thị trường tài chính quá sớm đã đưa đến sự bất ổn định toàn cầu và khi một nước bị khủng hoảng thì các trợ giúp của các chương trình IMF lại càng làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn, đặc biệt là người nghèo. 1.3.3 Thoả thuận Bretton Woods: đã kêu gọi thành lập một tổ chức kinh tế quốc tế thứ 3, WTO, để kiểm soát quan hệ thương mại quốc tế không những nhằm hạn chế việc các nước tăng thuế nhập khẩu bảo vệ nền kinh tế nội địa gây ra sự tràn lan của suy thoái kinh tế mà còn thúc đẩy sự lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ và tạo ra một diễn đàn để đảm bảo đàm phán thương mại được diễn ra và những thoả thuận được thực hiện. Như vậy, những ý tưởng và dự định đằng sau sự hình thành của các tổ chức quốc tế đều là tốt đẹp, nhưng dần qua thời gian đã bị biến dạng thành những thứ khác nhau. Những định hướng hoạt động của IMF, nhấn mạnh đến sự thất bại của thị trường và vai trò của chính phủ trong việc tạo việc làm đã bị thay thế bởi tư tưởng thị trường tự do. Tư tưởng này, chính là một phần của đồng thuận Washington- một sự đồng thuận giữa IMF, WB, Bộ tài chính Mỹ về "các chính sách đúng" cho các nước phát triển. 1.3.4 Những hạn chế căn bản trong đồng thuận Washington: thứ nhất là khá nhiều ý tưởng trong sự đồng thuận mới này được hình thành trong quá trình đối phó với những vấn đề của Mỹ Latinh, nơi các chính phủ thường mất kiểm soát chi tiêu ngân sách trong khi lại thực thi nới lỏng tiền tệ và hậu quả là lạm phát lại được áp dụng cho những nước mà nền kinh tế có cấu trúc, thế mạnh, điểm yếu hoàn toàn khác. Thứ hai, những chính sách như tự do hoá thị trường vốn được đẩy mạnh trên khắp các nước Mỹ Latinh góp phần tạo ra những bất ổn định thì những chính sách này vẫn được thúc đẩy ở nơi khác. Thứ ba, các chính sách được đưa ra không hề phù hợp với những nước trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển hay chuyển đổi kinh tế như việc bắt một nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá nhập khẩu cạnh tranh với sản phẩm của các ngành công nghiệp nội địa còn non nớt và dễ bị tổn thương đã gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nghiêm trọng. Hay việc yêu cầu các nước phát triển phải thắt chặt chính sách tiền tệ đẩy lãi suất lên cao trong khi mạng lưới an sinh xã hội chưa hình thành đã dẫn đến những người mất việc bị đẩy vào cảnh nghèo đói túng quẫn. Hay việc bắt các nước đang phát triển với hệ thống ngân hàng vừa chỉ mới phát triển phải đối mặt với những rủi ro khi mở cửa thị trường đã làm cho các nước này không thể kiểm soát được dòng chu chuyển vốn khi mà sự lưu chuyển tiền vào và ra ở các nước này diễn ra với tần suất quá lớn. Thêm vào đó, chính sách thắt lưng buộc bụng đã không làm tăng trưởng kinh tế các nước như đã hứa hẹn mà còn là nguyên nhân cản trở tăng trưởng, gia tăng nghèo đói. Tuy nhiên, một số cải cách kiểu thị trường tự do của IMF cũng có đem lại thành công cho một số nước như Chile chẳng hạn nhưng phần còn lại của lục địa này vẫn còn phải tiếp tục bù lại một thập kỉ đã mất mát. Thậm chí, ngay cả khi những nước này đã đẩy lùi được lạm phát thì tình trạng thất nghiệp cao kinh niên vẫn còn. Thêm vào đó, tại các quốc gia có được một chút tăng trưởng ta cũng thấy rõ là lợi ích chỉ tập trung vào trong tay những người giàu và đặc biệt là tầng lớp cực giàu trong khi nghèo đói vẫn hoành hành. 1.3.5 Vấn đề người đại diện trong IMF: những người đứng đầu trong IMF và bộ tài chính Mỹ thường xuất thân từ các công ty tài chính và sau khi kết thúc nhiệm kì trong chính phủ họ lại trở về nơi đó làm việc. Điều này đã cho thấy, những cá nhân này đương nhiên sẽ nhìn thế giới bằng con mắt của cộng đồng tài chính và những quyết định của các tổ chức này luôn luôn phản ảnh quan điểm và lợi ích của những người ra quyết định. Như vậy có thể nói, toàn cầu hoá bản thân nó không xấu, nó có sức mạnh đem lại vô số những điều tốt. Chính vì vậy, việc ban hành các quyết định, chính sách của IMF nên bớt coi trọng hệ tư tưởng mà hãy nhìn xem thực tế cái gì có hiệu quả. Điều quan trọng là làm sao những thành công ở Đông Á cũng đạt được ở những nơi khác. Cái giá mà chúng ta phải trả sẽ rất lớn nếu để tiếp diễn bất ổn toàn cầu. 2 Những lời hứa bị phá bỏ: 2.1 Ethiopia và cuộc chiến giữa quyền lực chính trị và nghèo đói: Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100USD/năm và đất nước này đã liên tục phải hứng chịu hạn hán và mất mùa gây nên cái chết của 2 triệu người. Để cải thiện tình hình trên và làm cho đất nước thoát khỏi nghèo đói thủ tướng Meles đã tiến hành quá trình chuyển đổi kinh tế. Cả ông và chính phủ đã cam kết theo đuổi quá trình phi tập trung hoá, đưa chính phủ đến gần người dân và đảm bảo trung tâm đất nước không bị chia tách với các khu vực khác. Chính điều này, đã giúp Ethiopia không còn lạm phát và giá cả đã giảm xuống. Meles đã cho thấy rằng, với những chính sách đúng đắn, ngay cả một quốc gia châu Phi nghèo đói cũng có thể tăng trưởng ổn định. Nhưng Meles đã gặp phải vấn đề với IMF, IMF đã ngừng chương trình tài trợ cho nước này, mặc cho thành quả kinh tế vĩ mô tốt, họ lập luận rằng họ lo ngại về tình hình ngân sách của Ethiopia. Một xung đột nữa giữa IMF và Ethiopia là vấn đề trả nợ sớm. Ethiopia đã sử dụng một phần dự trữ của mình để trả nợ cho các ngân hàng của Mỹ và IMF đã phản đối chuyện này. Họ phản đối không phải bởi vì cách làm này sai mà vì Ethiopia đã làm điều đó mà không xin phép IMF. Nhưng một quốc gia có chủ quyền không lẽ không thể tự định đoạt được số phận của mình hay sao? Không chỉ dừng lại ở đó, bất đồng này còn tăng lên khi IMF cho rằng các nước nhận tiền viện trợ của nó có trách nhiệm báo cáo tất cả mọi thứ thích hợp, không thực hiện điều đó sẽ dẫn đến việc đình chỉ các chương trình cho vay, bất kể lí do của việc không báo cáo là gì. Một điểm đáng chú ý khác trong quan hệ giữa IMF và Ethiopia liên quan đến quá trình tự do hoá thị trường tài chính. IMF muốn Ethiopia không chỉ mở cửa thị trường tài chính cho cạnh tranh mà còn muốn chia ngân hàng lớn của nước này thành các đơn vị nhỏ.Trong khí đó, các tập đoàn tài chính lớn như Citibank và Travelers.. còn phải hợp nhất để cạnh tranh hiệu quả thì một ngân hàng quốc gia nhỏ bé của Ethiopia làm sao có thể cạnh tranh nổi. Chính vì thế mà khi các tổ chức tài chính toàn cầu vào một nước, chúng sẽ "hạ gục" mọi đối thủ cạnh tranh trong nước. Và khi thu hút được những người gửi tiền từ bỏ các ngân hàng nội địa, chúng sẽ tập trung hơn và rộng rãi hơn khi cho các tập đoàn đa quốc gia lớn vay hơn là cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và nông dân. Nhưng thực sự IMF đã quá sai lầm, bởi tự do hoá thị trường tài chính là cho phép lãi suất được tự do định đoạt trên thị trường và IMF tin rằng thị trường tài chính tự do luôn làm giảm lãi suất và do đó làm cho nguồn vốn dễ tiếp cận hơn. Thực tế thì không phải như thế, bởi với một nước mà phần lớn là nông dân như Ethiopia, điều quan trọng là nông dân có thể tiếp cận tín dụng với điều kiện hợp lý để mua hạt giống và phân bón. Chính vì thế mà lãi suất của Ethiopia chắc chắn phải thấp hơn lãi suất thị trường tự do và nếu như để tự do hoá thị trường tài chính ngay bây giờ thì người dân nước này càng khó có thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Chính vì lẽ đó mà Ethiopia đã đi ngược lại theo những lời khuyên của IMF. Một vấn đề nữa là IMF đã không tập trung vào sứ mệnh nguyên thuỷ của nó là hỗ trợ cho sự ổn định toàn cầu hoá, thay vào đó nó lại tham gia vào các vấn đề phát triển của các nước đang phát triển. Nó đã không nhận ra rằng, các nước đang phát triển gặp khó khăn nhiều hơn so với các nước phát triển. Đó là do, ở các nước này nhiều thị trường không tồn tại và khi tồn tại thì hoạt động không hoàn hảo. Thêm vào đó là các vấn đề về thông tin và văn hoá có thể ảnh hưởng đáng kể tới hành vi kinh tế. Hơn thế nữa, những chính sách phù hợp phải được xây dựng bởi các nhà kinh tế hàng đầu, được đào tạo tốt, hiểu biết sâu sắc và làm việc hàng ngày để giải quyết các vấn đề ở ở nước này. Những người bên ngoài có thể đóng vai trò như chia sẻ kinh nghiệm của các nước khác nhưng IMF không muốn chỉ đóng vai trò là một nhà tư vấn cạnh tranh với các nhà tư vấn khác, nó muốn một vai trò trung tâm trong định hướng chính sách của Ethiopia. IMF đã đi quá xa hơn là chỉ đơn giản đảm bảo rằng các nước không lạm chi quá năng lực của mình. 2.2 Botswana minh chứng hùng hồn cho những sai lầm của IMF: Botswana cách Ethiopia 2300 dặm về phía nam, dân số 1.5 triệu người, thu nhập bình quân đầu người chỉ có 100 USD/năm (vào thời điểm Botswana độc lập1966) và một nền dân chủ ổn định sau ngày giành độc lập. Nó là một nước nông nghiệp nhưng thiếu nước và cơ sở hạ tầng hết sức sơ khai nhưng Botswana lại là nước thành công trong phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 7.5% (1966-1997). Botswana thuận lợi là có nhiều kim cương, nhưng các nước như Nigeria, Sierra Leone cũng là nước giàu tài nguyên. Tuy nhiên ở những nước này, nguồn lợi từ tài nguyên chỉ càng làm tăng thêm nạn tham nhũng và tranh giành lẫn nhau trong việc kiểm soát nguồn của cải này. Thành công của Botswana dựa trên khả năng duy trì sự ổn định chính trị trên cơ sở đại đoàn kết dân tộc, việc lựa chọn kĩ lưỡng các nhà tư vấn của những người có trách nhiệm và việc duy trì sự hợp tác tốt giữa chính phủ và những nhà tư vấn nước ngoài đến từ nhiều tổ chức. Họ đã giúp Botswana xác lập lộ trình cho tương lai của đất nước, họ đã giải thích một cách cởi mở và chân thành về các chính sách của họ khi họ làm việc với chính phủ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ rộng rãi cho những chính sách và chương trình đó. Đây là điều khác biệt hoàn toàn với IMF- nó chỉ làm việc với Bộ tài chính và ngân hàng trung ương. Sự đồng thuận sống còn ở Botswana đã từng bị đe doạ khi nước này phải đối mặt với khủng hoảng kinh tế. Một trận hạn hán đã đe doạ cuộc sống của người nuôi gia súc và các vấn đề trong ngành công nghiệp kim cương đã tác động đến tình hình ngân sách của nước này. Nhưng thay vì cần phải tài trợ cho thâm hụt nhằm ngăn chặn suy thoái kinh tế thì nó lại bắt buộc các nước muốn nhận tài trợ của nó phải tuân thủ chính sách tài khoá thắt lưng buộc bụng. Tuy nhiên, nhờ nhận biết được sự không ổn định xuất phát từ ngành chăn nuôi và kim cương, Botswana đã thận trọng dành ra một quỹ để đề phòng khủng hoảng. Khi nhận thấy nguồn quỹ đang giảm dần, họ đã thắt chặt dây lưng, hợp sức với nhau, quyết định chính sách trên cơ sở đồng thuận để vuợt qua khủng hoảng mà không hề gây ra sự chia cắt xã hội như những nơi khác trong các chương trình của IMF. Như vậy, nhờ việc không tuân theo các điều kiện áp đặt của IMF (cũng có nghĩa là việc Botswana không nhận được tài trợ từ tổ chức này) Botswana đã đi theo cách riêng đòi hỏi ít sự hi sinh hơn và có kết quả tốt hơn. 2.3 Sự thất bại của Kenya do tuân thủ tuyệt đối các chính sách của IMF: trái với 2 nước trên Kenya là một quốc gia giàu có và màu mỡ. Các văn phòng chính phủ đầy ắp những nhân viên được đào tạo tốt thế nhưng nền kinh tế lại bi suy sụp do nạn tham nhũng hoành hành và việc tuân thủ theo những lời khuyên của IMF đã dẫn tới lãi suất cao, các doanh nghiệp và người nông dân không thể tiếp cận nguồn vốn đã đưa đến sản lượng kinh tế giảm, thất nghiệp và nghèo đói gia tăng. 2.4 Sự mất cân bằng quyền lực giữa IMF và "khách hàng": IMF luôn tuyên bố rằng nó không áp đặt mà luôn đàm phán những điều khoản của bất kì hợp đồng vay nào với một nước đi vay. Nhưng đây là một cuộc đàm phán một phía, trong đó tất cả quyền lực đều nằm trong tay IMF, các nước đi vay buộc phải tuân theo nếu họ muốn nhận tài trợ và không muốn làm nản lòng các quỹ đầu tư tư nhân khi IMF nói rằng họ nghi ngờ khả năng hồi phục của nền kinh tế một nước nào đó. Thêm vào đó, những thông báo công khai của IMF rằng các cuộc đàm phán đã đổ vỡ hay bị hoãn lại sẽ gửi những thông tin không tốt đến thị trường. Những tín hiệu này, trong trường hợp tốt nhất sẽ chỉ làm tăng lãi suất và trong trường hợp xấu nhất sẽ dẫn đến việc các quỹ tư nhân chấm dứt toàn bộ các khoản đầu tư. Điều này con nghiêm trọng hơn với các nước nghèo nhất, nơi rất khó tiếp cận nguồn vốn tư nhân vì các nhà tài trợ khác thường cho vay trên cơ sở chấp thuận của IMF. Chính vì thế, khi áp đặt các điều kiện thoả thuận, IMF thực tế đã bóp chết mọi thảo luận về các chính sách kinh tế của chính phủ các nước nhân tài trợ. Nghiêm trọng hơn là ẩn sau các điều kiện áp đặt thường là các công cụ chính sách để thúc đẩy lịch trình chính trị của nó. Chẳng hạn như, khoản vay của IMF cho Hàn Quốc là đi kèm với điều kiện thay đổi điều lệ ngân hàng, làm cho nó độc lập hơn với các tiến trình chính trị mà còn phải tập trung vào chống lạm phát. Nhưng thực tế, nếu ngân hàng trung ương chỉ tập trung vào chống lạm phát thì dễ đưa đến suy thoái kinh tế bởi không thể có tăng trưởng kinh tế khi không có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng. Một sự thiếu công bằng nữa giữa IMF và "khách hàng" là sự thiếu minh bạch về thông tin. Các công dân của các nước không những bị ngăn cản tham gia thảo luận các thoả thuận mà còn thậm chí không được thông báo những thoả thuận đó là gì. Mà như chúng ta đã biết, sự thiếu minh bạch thông tin ở các tổ chức công thường đem lại những hậu quả tồi tệ. Vì thế, sự cần thiết là phải tăng cường tính minh bạch, cải thiện thông tin để các công dân biết được về những hoạt động của các tổ chức này, cho phép những ai bị ảnh hưởng bởi các chính sách có tiếng nói hơn trong việc hoạch định chính sách đó. Đã đến lúc chúng ta cần phải đánh giá hiệu quả làm việc của các tổ chức kinh tế quốc tế và xem xét một số chương trình của nó có thực sự thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo hay không? 3 Quyền tự do lựa chọn? 3.1 Tư nhân hoá: Theo ý kiến của IMF và WB thì tư nhân hoá phải được tiến hành nhanh chóng nhưng thực tế tư nhân hoá khi chưa có những điều kiện cần thiết và không có một lịch trình cụ thể thường không mang lại những lợi ích như đã hứa hẹn. Một ví dụ có thể minh chứng cho điều này là ở Bờ Biển Ngà. Công ty điện thoại bị tư nhân hoá trước khi có đủ các chế tài cạnh tranh. Một hãng của Pháp đã mua lại và thuyết phục chính phủ cho nó độc quyền không chỉ trong các dịch vụ điện thoại hiện có mà trong cả những dịch vụ điên thoại di động mới. Hãng này đã nâng giá cao đến mức sinh viên không thể đủ tiền truy cập internet. Điều này đã làm gia tăng "khoảng cách số" vốn đã rất lớn giữa người nghèo và người giàu giờ lại còn lớn hơn. Tư nhân hoá không những gây thiệt hại cho người tiêu dùng như đã nói ở trên mà còn gây thiệt hại cho người lao động. Tư nhân hoá có thể loại bỏ những công nhân có năng suất thấp nhưng sự cắt giảm lao động khi mà hệ thống bảo hiểm thất nghiệp ở các nước đang phát triển chưa hình thành thường gây ra những thiệt hại lớn cho xã hội như rối loạn chính trị, tham nhũng, thất học và các tệ nạn xã hội… 3.2 Tự do hoá và vấn đề xác định nhịp độ mở cửa thị trường: Tự do hoá hay xoá bỏ can thiệp của chính phủ vào thị trường tài chính, thị trường vốn và các rào cản thương mại nếu đi quá xa sẽ dễ dẫn tới khủng hoảng tài chính toàn cầu đặc biệt là có thể gây nên sự đổ vỡ ở các nền kinh tế nhỏ mới nổi. Cụ thể: 3.2.1 Tự do hoá thương mại được kì vọng sẽ nâng cao thu nhập quốc dân bằng cách đưa nguồn lực từ nơi kém hiệu quả đến nơi sử dụng nguồn vốn hiệu quả hơn. Nhưng việc chuyển các nguồn lực từ nơi năng suất thấp sang nơi năng suất "bằng không" chẳng làm các nước giàu thêm mà thậm chí còn dễ dàng làm mất việc làm khi những ngành công nghiệp kém hiệu quả bị đóng cửa dưới áp lực của cạnh tranh quốc tế. Quan điểm của IMF là những việc làm mới có năng suất cao sẽ được tao ra khi những việc làm cũ không hiệu quả bị xoá bỏ. Nhưng thực tế không đơn giản như thế bởi ở các nước đang phát triển để lập doanh nghiệp mới và tạo việc làm mới cần phải có vốn và óc kinh doanh. Nhưng cả 2 điều này đều khó thực hiện được ở các nước đang phát triển vì trình độ giáo dục ở các nước này thường không cao và không có tài trợ của ngân hàng. Ở một số nước, chương trình thắt lưng buộc bụng của IMF thường trở nên xấu hơn do lãi suất cao nên việc gia tăng việc làm trở thành một nhiệm vụ bất khả thi. Những nước đang phát triển thành công nhất như Đông Á cũng mở cửa ra thế giới bên ngoài nhưng đã làm từ từ theo một lịch trình cụ thể. Những nước này đã lợi dụng toàn cầu hoá để mở rộng xuất khẩu và kết quả là tăng trưởng nhanh hơn. Nhưng họ dỡ bỏ hàng rào bảo hộ một cách thận trong và có hệ thống, chỉ xóa bỏ chúng khi đã tạo thêm được việc làm mới. Thậm chí nhà nước đảm nhiệm cả vai trò hỗ trợ kinh doanh, thúc đẩy những doanh nghiệp mới. Thực tế, tự do hoá thương mại thường xuyên thất bại trong việc đem lại lợi ích hứa hẹn mà thay vào đó là tạo thêm thất nghiệp. Các nước phương Tây thúc đẩy tự do hoá để xuất khẩu sản phẩm của họ nhưng lại tiếp tục bảo hộ những lĩnh vực mà nó cạnh tranh với các nước đang phát triển. Đây chính là một trong những cơ sở của sự phản đối của vòng đám phán thương mại tổ chức tại Seatle khi mà lợi ích của các nước phát triển được bảo vệ trong khi không hề đề cập tới lợi ích của những nước kém phát triển hơn và mới đây tại vòng đàm phán Uruguay (bàn về các vấn đề thương mại trong dịch vụ) các nước đang phát triển cũng không thể giành được một chỗ đứng trong những lĩnh vực mà nó có ưu thế như hàng hải và xây dựng. 3.2.2 Tự do hoá thị trường vốn: Trong khi các nước công nghiệp tiên tiến, với hệ thống thể chế đầy đủ, đã học được những bài học đắt giá từ phi điều tiết tài chính thì IMF lại yêu cầu các nước đang phát triển tự do hoá tài chính thật nhanh đã dẫn tới hậu quả suy thoái kinh tế cùng với khủng hoảng hệ thống ngân hàng đã không làm cho lãi suất giảm như nó đã hứa hẹn mà trái lại lãi suất còn gia tăng khiến cho đời sống của nhiều người ngày càng gặp nhiều khó khăn. Tự do hoá thị trường tài chính đòi hỏi dỡ bỏ những quy định dùng để kiểm soát dòng tiền nóng đã khiến cho đầu tư dài hạn vào các nước đang phát triển trở nên kém hấp dẫn hơn do những rủi ro đi kèm với dòng tiền nóng đã tăng lên. Để kiểm soát những rủi ro đi kèm với dòng vốn đầy biến động này, các nước thường được IMF khuyến cáo dành ra một khoản dự trữ tương đương với nợ ngắn bằng ngoại tệ. Điều này nghĩa là, khi tự do hoá thị trường tài chính, chính các doanh nghiệp là người quyết định nên vay vốn ngắn hạn từ các ngân hàng Mỹ hay không. Nhưng chính chính phủ phải tự điều chỉnh, tăng thêm dự trữ nếu muốn duy trì mức độ an toàn. Thêm vào đó, một sai lầm đáng nghiêm trọng hơn khi IMF lại nghĩ rằng tự do hoá sẽ đảm bảo sự ổn định bằng cách đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư. Như vậy các nước khi gặp khó khăn và suy thoái, các nước có thể kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài bổ sung cho số vốn bị thiếu hụt trong nước. Tuy nhiên, khi suy thoái kinh tế xảy ra, các chủ nợ sẽ nhanh chóng rút vốn ra và như thế càng đẩy suy thoái trở nên trầm trọng hơn. 3.3 Vai trò của đầu tư nước ngoài: Đầu tư nước ngoài không phải là một trong ba trụ cột của Đồng thuận Washington nhưng lại là một bộ phận chủ yếu của quá trình toàn cầu hoá. Theo Đồng thuận này, thì tăng trưởng xảy ra thông qua tự do hoá thị trường. Tư nhân hoá, tự do hoá và sự ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư và đầu tư sẽ là tiền đề cho tăng trưởng. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những mặt trái của nó bởi nếu chưa có luật cạnh tranh hoặc có nhưng không được thực thi hiệu quả và chưa xác định được nhịp độ mở cửa ở mức nào thì sau khi các hãng nước ngoài đánh bật sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại, chúng sẽ sử dụng sức mạnh độc quyền để tăng giá và như vậy lợi ích của giá hàng hoá rẻ sẽ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Ngay cả trong thị trường tài chính cũng vậy, khi các ngân hàng lớn của nước ngoài vào cung cấp bảo hiểm cao hơn cho người gửi tiền so với các ngân hàng nhỏ địa phương thì luồng vốn trong nước tất nhiên sẽ chảy vào các ngân hàng lớn và nhiều người đã lo ngại rằng tiền sẽ chảy về các trung tâm tài chính lớn như New York sẽ làm cạn kiệt nguồn vốn ở nhưng khu vực xa xôi cần vốn. Và trường hợp của Argentina đã cho chúng ta thấy rõ nguy cơ này. Thêm vào đó, là các ngân hàng nước ngoài được hình thành theo luật của nước ngoài nên khi tham gia vào hoạt động ở một nước nào đó nó thường chỉ chịu tác động của luật doanh nghiệp nước đó chứ không chịu tác động nhiều của luật của các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, mọi tác động của ngân hàng trung ương thông qua lãi suất chiết khấu thì thường chỉ có các ngân hàng trong nước chịu ảnh hưởng nhiều. 3.4 Kinh tế học "lọt sang xuống nia": Muốn giảm nghèo đói trước tiên cần có tăng trưởng kinh tế. Nhưng khi việc tăng trưởng kinh tế đạt hiệu quả thì cần phải có cơ chế phân chia hợp lí để đảm bảo rằng người nghèo được hưởng lợi từ thành quả đó. Bởi lẽ, bản thân tăng trưởng không thể tự nó thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng. 3.5 Những ưu tiên và chiến lược: Trước tiên, chúng ta cần phải xem xét không chỉ những gì mà IMF đã đưa vào lịch trình hành động của nó mà ngay cả những gì đã bị bỏ sót. Bởi lẽ, nhiều điểm không được đề cập trong đồng thuận Washington lại có thể mang lại cùng lúc tăng trưởng cao hơn và bình đẳng hơn. Vì vậy, trước hết các nước đang phát triển cần phải tập trung vào những mục tiêu sau: (1) cải cách ruộng đất để người lao động nghèo không chỉ có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKTCT (30).doc