Tự chủ đại học ở Việt Nam - Xu thế tất yếu

Ở nước ta, tự chủ đại học được coi là xu thế phát triển tất yếu,

là điều kiện cần và đủ để các trường đại học tồn tại và phát

triển trong xu thế cạnh tranh và hội nhập. Việt Nam đã và đang

thực hiện thí điểm cơ chế này. Ngoài những thành tựu đạt được,

chúng ta cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức,

đỏi hỏi sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị.

pdf9 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 16/05/2022 | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tự chủ đại học ở Việt Nam - Xu thế tất yếu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiên cứu khoa học vẫn phải quyết toán theo Luật Ngân sách nhà nước... Việc tự chủ của các trường đại học ở nước ta đang có sự phân hóa, với những trường đã tạo lập được thương hiệu, có tiềm lực tài chính, đội ngũ cán bộ mạnh thì việc thực hiện tự chủ sẽ thuận lợi hơn. Khi cơ chế tự chủ đi vào thực hiện ổn định đã làm cho vị thế của các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được củng cố và có thêm động lực phát triển, ảnh hưởng tới xã hội sâu rộng, thu nhập của đội ngũ cán bộ tăng lên, khả năng hội nhập dễ dàng hơn... Việc triển khai thực hiện tự chủ đại học ở nước ta thời gian qua vẫn chỉ là tự chủ một phần. Nguyên nhân: cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học, người học và xã hội. Khoản 4, Điều 12 Luật Giáo dục đại học quy định về chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học: “thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học, khuyến khích phát triển cơ sở giáo dục đại học tư thục; ưu tiên cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; có chính sách ưu đãi đối với tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư vào hoạt động giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tại cơ sở giáo dục đại học; có chính sách miễn, giảm thuế đối với tài sản hiến tặng, hỗ trợ cho giáo dục đại học, cấp học bổng và tham gia chương trình tín dụng sinh viên” [7]. Mặc dù có quy định về chính sách ưu đãi, nhưng chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể về đối tượng, mức ưu đãi để các trường có thể chủ động trong công tác huy động nguồn lực xã hội. Việc thu hút nguồn lực xã hội cho nhà trường chưa sớm được khơi thông. Theo tinh thần của Luật Giáo dục đại học, không phải các trường được giao quyền tự chủ thì Nhà nước sẽ “bỏ rơi”, mà sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ được nhìn nhận theo các khía cạnh khác. Muốn nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước, các trường công lập và ngoài công lập sẽ phải đảm bảo ba điều kiện cơ bản: 1) phải đổi mới năng lực quản trị của nhà trường để tận dụng hiệu quả nhất các nguồn lực; 2) giải trình và chịu trách nhiệm trước xã hội, trước các cơ quan quản lý và trước người học; 3) phải tự xây dựng thương hiệu. Có thương hiệu thì Nhà nước mới đặt hàng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Một trong những nội dung rất quan trọng của tự chủ đại học là tự chủ về học thuật. Nếu tự chủ về học thuật là cơ sở quan trọng bậc nhất để khẳng định uy tín, sức mạnh của các cơ sở đào tạo đại học ở các quốc gia phát triển thì với Việt Nam, công tác này đang vướng nhiều sự ràng buộc từ phía các cơ quan chức năng. Trong khung chương trình của hệ đại học theo quy định, luôn có nội dung bắt buộc. 4. GIẢI PHÁP Về phía các cơ quan chức năng: cần nhanh chóng ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học, đi cùng với đó là rà soát, điều chỉnh để đồng bộ hóa các quy định trong các bộ luật liên quan để tránh sự chồng chéo. Chuyển từ cơ chế quản lý trực tiếp sang cơ chế điều tiết, hỗ trợ bằng công cụ vĩ mô VŨ TIẾN DŨNG 8 và giám sát chất lượng. Xây dựng hành lang pháp lý để các trường đại học có thể tự tin thực hiện xây dựng cơ chế tự chủ theo quy định và hướng dẫn của các văn bản pháp quy. Xây dựng lộ trình tự chủ của cả hệ thống giáo dục đại học trong mối tương quan tương đối với hệ thống giáo dục đại học trên thế giới. Không mở bung một cách đại trà, mà có lộ trình tuần tự, chắc chắn để cơ chế tự chủ lan tỏa đến toàn hệ thống giáo dục đại học. Những trường chưa tự chủ hoặc chỉ tự chủ một phần sẽ áp dụng cơ chế quản lý và giám sát khác với các trường đã đủ điều kiện và được công nhận tự chủ. Cùng với chế tài ràng buộc, cần ban hành cơ chế ưu đãi cụ thể (ưu đãi có tính điều kiện) để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học nỗ lực xây dựng cơ chế tự chủ. Bổ sung, hoàn thiện các thiết chế liên quan để phân định hóa, hiện thực hóa vai trò của Hội đồng trường trong các trường đại học trong mối tương quan với các tổ chức chính trị khác. Khoản 11, Điều 4 khi quy định về tự chủ cũng chưa đề cập cụ thể đến công tác tuyển sinh của các trường đại học. Tuyển sinh là một khâu mấu chốt đầu tiên của quá trình đào tạo. Số lượng, cơ cấu tuyển sinh phải dựa trên cơ sở nhu cầu nhân lực của xã hội, phụ thuộc vào năng lực về cơ sở vật chất, quản trị, đội ngũ giảng viên, tài chính của từng trường. Những thông số này có thể liên tục biến động, việc định hướng, xây dựng cơ chế để các trường đại học chủ động trong công tác tuyển sinh là điều cần thiết. Quy chế kiểm tra đánh giá và công nhận tốt nghiệp do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành cũng như các quy chế trước đó có nhiều điểm dành cho trường đại học chủ động đề xuất cho phù hợp với đặc điểm của mình, tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm giới hạn quyền tự chủ của các trường (như quy định về ngừng học, thôi học, điều kiện tốt nghiệp). Những quy định này không nên giống nhau ở các trường khác nhau. Cần giao quyền chủ động xây dựng những quy chế này cho các trường đại học. Về phía trường đại học: việc thực hiện tự chủ đại học ở nước ta có tính đặc thù, nhưng về cơ bản vẫn phải theo quy luật phát triển giáo dục đại học thế giới. Tự chủ về tổ chức và nhân sự: trong khi chờ hướng dẫn từ phía các cơ quan chức năng, các trường đại học cần tích cực, chủ động lên kế hoạch và xây dựng lộ trình tự chủ; thiết lập khung cơ cấu tổ chức, sắp xếp bộ máy nhân sự và nâng cao năng lực quản trị. Trên cơ sở dân chủ, công khai, minh bạch, các trường phải xây dựng một bộ quy tắc ứng xử giống bộ luật của trường (bao gồm quy chế làm việc, tuyển dụng, sử dụng cán bộ, lương, thưởng) phải được Hội đồng trường thông qua. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện giám sát nội bộ và thực hiện giải trình trách nhiệm với xã hội. Tự chủ về tài chính: quản lý tài chính đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện tự chủ đại học. Đây là vấn đề then chốt nhằm đảm bảo quá trình tự chủ và tự chịu trách nhiệm được thực hiện đầy đủ, khách quan, công bằng và minh bạch. Quyền tự chủ của trường đại học chỉ có thể được thực hiện tốt nếu trước hết phải bảo đảm được quyền tự chủ về tài chính. Để tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính, các trường cần hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ, chú trọng giải pháp chi theo hiệu quả công việc; phân cấp và quyền cho các đơn vị trong trường để mở rộng nguồn thu và khoán chi; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị; quy định trách nhiệm giải trình về tài chính giữa các cấp; tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ và công khai tài chính Tự chủ về học thuật và đào tạo: các trường căn cứ vào điều kiện của mình để xây dựng chương trình đào tạo theo quy định. Tiến hành đổi mới chương trình đào tạo theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao kỹ năng thực hành cho cả người dạy và người học; đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng lấy người học làm trung tâm; tăng cường liên kết với doanh nghiệp; liên thông đào tạo giữa các ngành, các trường trong và ngoài nước. Mở các ngành học mới theo nhu cầu thực tiễn, theo hướng đa TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(29), THÁNG 3 – 2021 9 dạng hóa các ngành nghề đào tạo, tiếp cận chương trình đào tạo, giáo trình giảng dạy của các trường đại học ở các nước phát triển. Tự chủ về kiểm tra, đánh giá: một trong những điều kiện cơ bản để có thể giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm là mỗi trường có một hệ thống kiểm tra, đánh giá với giảng viên, học viên và sinh viên, đó là cơ sở quan trọng để điều chỉnh phương pháp giảng dạy, học tập, nghiên cứu, ứng xử nhằm xây dựng vị thế của từng trường. Nhằm góp phần hoàn thiện tất cả các khâu trong quy trình đào tạo, các trường đại học cần xây dựng cơ chế đánh giá của sinh viên đối với hoạt động giảng dạy của giảng viên cũng như hoạt động hỗ trợ của các bộ phận quản lý nội bộ. Cũng cần xây dựng cơ chế đánh giá của giảng viên đối với các bộ phận quản lý nội bộ. Cần công khai, minh bạch, đầy đủ và kịp thời về năng lực đào tạo, cơ cấu tổ chức, nhân sự cùng các điều kiện đảm bảo chất lượng của nhà trường để người học, nhà tuyển dụng, nhà đầu tư biết và giám sát. 5. KẾT LUẬN Giáo dục đại học Việt Nam đang ở trong tình thế cần có sự đột phá về chất lượng và hiệu quả. So với các nước phát triển, có kinh nghiệm hàng trăm năm để thực hiện tự chủ đại học thì chúng ta mới đi được đoạn đường đầu tiên. Quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ cũng là thời cơ thuận lợi giúp giáo dục đại học Việt Nam tiếp thu những kinh nghiệm và thành tựu của các nước nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển. Tự chủ đại học là một quá trình phát triển, cần có điều kiện, thời gian để chuyển đổi từ nhận thức, ý thức và văn hóa chất lượng trong hệ thống giáo dục đại học và toàn xã hội. Cùng với việc luật hóa, tư duy của các trường đại học vẫn là yếu tố có tính quyết định. Việc tạo thêm động lực cho các cơ sở giáo dục đại học cùng sự thay đổi mạnh mẽ hơn nữa từ phía cơ quan chức năng là rất cần thiết để tự chủ đại học ở nước ta thành công. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Nghị quyết về đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2010- 2012 (số 05-NQ/BCSĐ) của Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá thực trạng quản lý giáo dục đại học và chỉ đạo tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và kiểm soát bên trong của trường đại học. [2] Chính phủ (2005), Nghị quyết 14/2005/NQ-CP về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. [3] Chính phủ (2005), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ: Nghị định quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIII của Đảng, Hà Nội. [5] Điều lệ trường đại học (2014), Số: 70/2014/QĐ-TTg. Nxb Giáo dục. [6] Luật Giáo dục (2005), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [7] Luật Giáo dục đại học (2019), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [8] Thông tư liên tịch (2009), của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ (07/2009/TTLT-BGDĐT- BNV tháng 4 năm 2009) hướng dẫn quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftu_chu_dai_hoc_o_viet_nam_xu_the_tat_yeu.pdf
Tài liệu liên quan