Hiện nay, tự chủ đại học đang là xu hướng mang tính toàn cầu trong
quản trị giáo dục đại học, là xu thế tất yếu của các quốc gia trong quản trị đại học, đó
là xu hướng cắt giảm sự can thiệp của nhà nước trong quản lý nhà trường, tăng cường
giao quyền tự chủ cho các trường. Quyền tự chủ đại học ở các quốc gia khác nhau phụ
thuộc vào mô hình nhà nước, trình độ phát triển, văn hóa, xã hội, pháp luật Kinh
nghiệm quốc tế, đặc biệt là những quốc gia có nền giáo dục phát triển cũng như có nét
tương đồng về thể chế nhà nước, về văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng
để đề ra các giải pháp phù hợp cho đổi mới tăng cường quyền tự chủ cho các trường
đại học ở Việt Nam. Giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đào tạo là một trong
những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định nhằm
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo-một trong ba đột phá chiến lược cần
thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn mới. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi
nghiên cứu tìm hiểu khái quát về tự chủ đại học, kinh nghiệm tự chủ đại học ở một số
nước và thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.
11 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Tự chủ đại học ở Việt Nam hiện nay từ kinh nghiệm thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át chặt
chẽ việc thực hiện chỉ tiêu của các trường.
Có thể nói việc giao quyền tự chủ cho các trường trong công tác tự xác định chỉ
tiêu tuyển sinh của mình thể hiện rõ một bước tiến lớn trong việc giao quyền tự chủ,
giúp cho các trường chủ động trong việc xác định chỉ tiêu phù hợp với nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của ngành nghề mình đào tạo, phù hợp với năng lực của cơ sở đào tạo
Tự chủ về tài chính
Cơ chế tự chủ về tài chính đã có tác động tích cực đến nhiều khía cạnh của các
trường đại học công lập, đặc biệt là nguồn thu, việc sử dụng nguồn lực tài chính, thu
510
nhập. Bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các trường năm 2016 là 10.553
tỷ đồng, các trường đại học công lập đã huy động các nguồn thu sự nghiệp năm 2016
là 14.878 tỷ đồng2.
Chính sách tự chủ tài chính đã mang lại một sự đổi mới về chất, tác động tích
cực hơn đến công tác quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính của nhà trường.
Chính sách tự chủ đã đặt ra yêu cầu buộc các trường (đặc biệt là tập thể lãnh đạo nhà
trường) phải quan tâm hơn đến công tác quản lý và sử dụng nguồn kinh phí, nâng cao
tinh thần tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng nguồn lực tài chính. Trên cơ sở đó, các
trường được chủ động mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, tạo điều
kiện tăng nguồn thu sự nghiệp, tiết kiệm chi, bổ sung nguồn kinh phí tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị giảng dạy của nhà trường, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động sự nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy, 87,8% ý kiến khẳng định việc thực hiện
chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực tài chính
của trường.
Chính sách tự chủ tài chính đã thực sự hướng đến tính hiệu quả trong việc quản
lý và sử dụng các nguồn lực tài chính, thể hiện qua sự tích lũy, tăng trưởng của việc
trích lập các quỹ (đặc biệt là Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của trường) và thu
nhập tăng thêm của người lao động tăng dần qua các năm. 67,9% ý kiến cho rằng, việc
thực hiện chính sách tự chủ tài chính có tác động tốt đến việc sử dụng các nguồn lực
tài chính cho phát triển cơ sở vật chất của trường.
Các trường chủ động hơn trong việc định hướng phát triển công tác đào tạo,
nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm mở rộng, khai thác các nguồn thu
sự nghiệp. Trong đó có việc chủ động quyết định hướng nghiên cứu và tham gia các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ, từ đó thương mại hóa kết quả nghiên cứu, liên kết
với các doanh nghiệp để tạo ra giá trị thực tiễn từ các công trình nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, việc tự chủ về tài chính cũng giúp các trường mở rộng quy mô đào
tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường các hoạt động đào tạo liên kết để nâng cao chất
lượng đào tạo, nhằm thu hút được sinh viên trong bối cảnh có rất nhiều trường đại học
cùng được mở mã ngành đào tạo nhiều loại hình nhóm ngành nghề như hiện nay.
Tự chủ về tổ chức, nhân sự
Theo Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ thời điểm được giao thí
điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp với lực
lượng lao động trực tiếp (giảng viên) tăng lên trong khi đội ngũ lao động gián tiếp
(chuyên viên và nhân viên) giảm xuống trong đó chú trọng hơn đến việc sử dụng công
nghệ thông tin hoặc thuê ngoài nhằm tăng hiệu quả hoạt động của bộ máy. Tính đến
tháng 7/2017, cơ cấu nhân lực tại các trường như sau: số lượng giảng viên chiếm tỷ lệ
là 62,52%-lớn nhất trong cơ cấu nhân lực của nhà trường, gấp đôi số lượng nhân viên.
Đội ngũ lãnh đạo và quản lý chiếm gần 10% tổng số nhân lực tại các trường tự chủ.
Theo cáo của các trường, số lượng cán bộ/giảng viên có chức danh giáo sư, phó
giáo sư và học vị từ thạc sĩ trở lên tại các trường đã tự chủ tăng lên đáng kể, số lượng
cử nhân giảm xuống so với giai đoạn trước tự chủ. Về phát triển đội ngũ giảng viên,
năm học 2016-2017, tổng số giảng viên trong các trường đại học là 72.792 người ,
tăng 4,6% so với năm học 2015-2016, trong đó giảng viên có trình độ tiến sĩ là 16.514
(tăng 21,4%) và thạc sĩ là 43.065 (tăng 6,6%). Kết quả tích cực này đến từ việc các
trường chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ giảng viên, tuyển dụng đội ngũ giảng
511
viên có học vị từ tiến sĩ trở lên, kéo dài thời gian công tác đối với giảng viên có chức
danh, học vị cao.
Hình 1. Sự thay đổi về chất lượng nhân sự của các trường tự chủ (2015-2017)
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2017)
4.2. Một số giải pháp cơ bản
Thứ nhất, Quốc hội sửa đổi Luật Giáo dục đại học và hoàn thiện thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục đại học sau khi được
sửa đổi. Trong quá trình sửa đổi Luật Giáo dục đại học, một số vấn đề về tự chủ của
các trường đại học công lập đặc biệt cần làm rõ như: quan niệm về tự chủ đại học,
quyền tự chủ đại học, nội dung và điều kiện tự chủ đại học; trách nhiệm giải trình của
các cơ sở Giáo dục đại học tự chủ; hoàn thiện, bổ sung và xác định rõ cơ chế quản trị
đại học nói chung và vị trí, vai trò của Hội đồng trường nói riêng; làm rõ và phân định
vai trò chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng trường, Ban giám hiệu và Đảng ủy. Đề xuất
xem xét sửa đổi các luật có liên khác như Luật Đầu tư công, Luật Viên chức v.v. để
các trường đại học được thực hiện tự chủ thực sự.
Thứ hai, cần thay đổi tư duy quản lý Nhà nước theo hướng Nhà nước chỉ quy
định về khung trình độ quốc gia, chuẩn kỹ năng nghề nghiệp quốc gia để từ đó các cơ
sở giáo dục đại học sẽ xây dựng mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra cho người học đáp ứng
các chuẩn nói trên, từ đó các cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn tự chủ trong việc tổ
chức đào tạo.
Thứ ba, cần đổi mới phương pháp quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo
hướng chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang phân cấp và mở rộng quyền tự chủ cho
các trường đại học. Nhà nước nên thay đổi từ vai tr “người lái đ ” sang vai tr định
hướng cho sự phát triển, chuyển từ kiểm soát sang giám sát thông qua chính sách kiểm
định chất lượng và phân bổ ngân sách. Có như vậy thì nhà nước vẫn đảm bảo được
tính hiệu quả và hiệu lực trong việc thực thi vai trò quản lý của mình.
Thứ tư, Giao quyền toàn bộ về công tác tuyển sinh cho nhà trường. Bộ Giáo dục
và Đào tạo cần giao cho các trường quyền quyết định chỉ tiêu tuyển dựa trên tín hiệu
thị trường lao động và hệ thống đảm bảo chất lượng với các tiêu chí chung do Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định, quyết định hình thức và phương thức tuyển sinh phù hợp với
năng lực mỗi trường.
512
Thứ năm, Rà soát, đánh giá sự phù hợp của Luật đầu tư công với cơ chế tự chủ
Giáo dục đại học. Việc đầu tư cho các trường nên áp dụng cơ chế trọn gói và theo dự
án. Các dự án quy mô lớn, cần sự hỗ trợ của nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần
hướng dẫn cơ sở Giáo dục đại học tự chủ đề xuất dự án đầu tư để thẩm định, tổng hợp
vào kế hoạch đầu tư công trung hạn trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định
và hàng năm bố trí kế hoạch vốn đầu tư cho cơ sở Giáo dục đại học tự chủ để triển
khai thực hiện.
Thứ sáu, Hoàn thiện các hướng dẫn theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ
sở Giáo dục đại học mới ban hành; rà soát, sửa đổi, bổ sung trình cấp có thẩm quyền
ban hành các tiêu chí, tiêu chuẩn, quy chuẩn chất lượng, cơ chế giám sát, đánh giá,
kiểm định chất lượng dịch vụ giáo dục đào tạo và thực hiện cơ chế tự chủ. Bên cạnh
đó, tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong phạm
vi thẩm quyền liên quan đến tự chủ đại học nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất,
đồng bộ cho các trường đại học thực hiện cơ chế tự chủ. Trước mắt tập trung vào việc
rà soát, sửa đổi, ban hành các thông tư hướng dẫn thực hiện cơ chế tự chủ trong khi
chờ đợi sự điều chỉnh về luật và các nghị định.
5. Kết luận
Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập là một trong những vấn
đề có tính cấp bách nhất hiện nay của giáo dục đại học Việt Nam, giải quyết được vấn
đề này sẽ giúp đổi mới quản trị đại học, đổi mới phương thức quản lý của Nhà nước
đối với giáo dục đại học hiện nay. Đúng như Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày
25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp
tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lậpđã đề ra. Trong quá trình mở rộng tự chủ cho các
cơ sở giáo dục đại học việc nghiên cứu, học tập các mô hình giáo dục đại học quốc tế
là hết sức cần thiết, đặc biệt từ những nền giáo dục đại học tiên tiến có xuất phát điểm
gần với Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Thế Hiển (2017), Đổi mới cơ chế tự chủ giáo dục đại học công lập
giai đoạn 2015-2017: kết quả và kiến nghị chính sách, Tạp chí Tài chính,
tháng 12/2017.
2. Phan Thị Bích Nguyệt (2016), Tự chủ đại học và các vấn đề nhức nhối cần
lời giải, Hội thảo “Tự chủ Đại học-Cơ hội và thách thức” do Hiệp hội các
trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam tổ chức ngày 30/9/2016.
3. Nguyễn Kiều Oanh (2017), Đường lối chiến lược, chính sách phát triển
giáo dục đại học Việt Nam trước yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nâng
cao năng lực cạnh tranh quốc tế, Chuyên đề Bồi dưỡng Ngạch giảng viên
chính, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017.
4. Maassen, P., Gornitzka, & Fumasoli, T. (2017). University reform and
institutional autonomy: A framework for analysing the living autonomy.
Higher Education Quarterly, 71(3), 239.
5. Provot, E.B. & Easterman, T. (2017). University Autonomy in Europe III
The Scorecard 2017. Available at:
https://eua.eu/resources/publications/830:the-european-university-
513
association-and-science-europe-join-efforts-to-improve-scholarly-research-
assessment-methodologies.html.
6. Nguyễn Minh Thuyết (2014): Tự chủ đại học-Thực trạng và giải pháp, Đối
thoại Giáo dục Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề Cải cách giáo dục đại học
ở Việt Nam, ngày 31/07 và 01/08/2014 tại TP Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_chu_dai_hoc_o_viet_nam_hien_nay_tu_kinh_nghiem_the_gioi.pdf