Trong kỉ nguyên mới của cách mạng số hóa, công nghệ đã góp
phần thay đổi cách thức dạy và học ở các môi trường giáo dục truyền thống.
Thay vì giáo viên kiểm soát và áp đặt lên hành vi, nhận thức của người học
và là nguồn cung cấp kiến thức duy nhất, người học được chủ động tìm kiếm
thông tin, bồi đắp kiến thức với sự hỗ trợ của công nghệ và hướng dẫn của
giáo viên. Trường học thông minh là một trong những cách tiếp cận sử dụng
công nghệ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại nhằm
mang lại những thay đổi căn bản trong dạy và học. Bài viết này lược khảo
một số yếu tố quan trọng của trường học thông minh và trình bày các giai
đoạn triển khai trường học thông minh ở Malaysia và Singapore.
9 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 18/05/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Trường học thông minh trong bối cảnh đổi mới giáo dục: Từ câu chuyện ở Malaysia và Singapore, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43
TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC:
TỪ CÂU CHUYỆN Ở MALAYSIA VÀ SINGAPORE
Nguyễn Thúy Nga1
Tóm tắt: Trong kỉ nguyên mới của cách mạng số hóa, công nghệ đã góp
phần thay đổi cách thức dạy và học ở các môi trường giáo dục truyền thống.
Thay vì giáo viên kiểm soát và áp đặt lên hành vi, nhận thức của người học
và là nguồn cung cấp kiến thức duy nhất, người học được chủ động tìm kiếm
thông tin, bồi đắp kiến thức với sự hỗ trợ của công nghệ và hướng dẫn của
giáo viên. Trường học thông minh là một trong những cách tiếp cận sử dụng
công nghệ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại nhằm
mang lại những thay đổi căn bản trong dạy và học. Bài viết này lược khảo
một số yếu tố quan trọng của trường học thông minh và trình bày các giai
đoạn triển khai trường học thông minh ở Malaysia và Singapore.
Từ khóa: Trường học thông minh; ICT; e-learning; Malaysia; Singapore
1. Dẫn nhập
Giáo dục thông minh (smart education), giáo dục trực tuyến (e-learning),
trường học thông minh (smart school) và lớp học thông minh (smart class) là
những khái niệm xuất hiện trong thời kì toàn cầu hóa và đặc biệt được nhắc
đến nhiều khi thế giới bắt đầu bước vào cuộc cách mạng 4.0. Hình thức, phương
pháp dạy học và cách tiếp cận vấn đề trong giáo dục vì thế cũng có sự thay đổi
để phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Cách thức giảng dạy truyền thống
theo lối đọc chép, giáo viên là nguồn cung cấp kiến thức duy nhất hay hình thức
đánh giá năng lực chung được áp dụng cho tất cả học sinh dần bị thay thế bởi
cách thức dạy và học chủ động trong đó giáo viên chỉ là người định hướng cho
1 Khoa Quản trị chất lượng, Trường Đại học Giáo dục;
Email: thuynga.nguyen11@gmail.com;
ĐT: 0964.757807.
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
44
học sinh tìm hiểu vấn đề, học sinh chủ động tìm các nguồn tư liệu dựa trên sự
hỗ trợ của công nghệ và chia sẻ với các học sinh khác. Nhiều hình thức đánh giá
năng lực học sinh cũng đã được áp dụng thay vì chỉ kiểm tra khả năng ghi nhớ
nội dung kiến thức.
Mô hình nhà trường thông minh đã được áp dụng ở một số nước trong khu vực
châu Á như Malaysia, Singapore, Đài Loan từ những năm 1996, 1997 và bắt đầu
được triển khai ở một số thành phố lớn ở Việt Nam năm 2018 theo đề án trường
học thông minh kết hợp với công ty Samsung nhằm hỗ trợ cho việc đổi mới phương
pháp dạy học tiên tiến và phát huy năng lực của người học.
2. Trường học thông minh
Khái niệm trường học thông minh (smart school) lần đầu tiên được Perkin giới
thiệu vào năm 1984 khi ông và các cộng sự ở trường Harvard giới thiệu dự án sử
dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm mang lại những trải nghiệm
mới trong giáo dục. Trong cuốn sách Smart schools: From training memories to
educating minds xuất bản năm 1992, Perkin khẳng định rằng trường học thông
minh cần đảm bảo hai yếu tố tiên quyết đó là (1) học tập là sản phẩm của tư tưởng
và tất cả học sinh đều có thể học tốt; (2) việc học đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc và sử
dụng tri thức một cách linh hoạt và tích cực.
Trường thông minh là một loại hình dạy học dựa trên công nghệ để cung cấp
kiến thức và kĩ năng cho học sinh nhằm chuẩn bị cho lực lượng lao động này nền
tảng vững chắc để thích ứng với kỉ nguyên thông tin mới. Do trường học thông
minh được xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng của công nghệ hiện đại, giáo
viên có sự trợ giúp của hàng loạt các công cụ đa phương tiện bao gồm Internet,
máy tính, phim ảnh, v.v. để giúp cho quá trình dạy và học hiệu quả hơn. Không
giống như các trường truyền thống, giáo trình và cách hướng dẫn của trường học
thông minh không cứng nhắc, gò bó, giáo viên có thể sử dụng nhiều công cụ đa
phương tiện khác nhau để hỗ trợ học sinh tiếp thu nội dung cơ bản hoặc học nâng
cao (Omidinia, Masrom & Selamat, 2012). Giải pháp này đã tối ưu hóa thiết bị kỹ
thuật số với nội dung đa phương tiện, tạo ra tương tác hai chiều, giúp giáo viên
giảng dạy hiệu quả hơn và khiến học sinh chủ động tham gia vào nội dung học tập,
từ đó tăng tính độc lập, sáng tạo. Đây là một giải pháp toàn diện, chuyển đổi từ mô
hình giáo dục thụ động sang giáo dục chủ động, sáng tạo.
Tại các trường học thông minh, giáo viên không cần thiết phải là chuyên gia
trong lĩnh vực công nghệ mà chỉ cần có kiến thức cơ bản về tin học và hiểu cách
vận hành hệ thống của trường cũng như cách tìm kiếm các nguồn thông tin để hỗ
trợ cho người học (Soltani, 2012). Học sinh có thể sử dụng cả nguồn kiến thức do
45TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC...
giáo viên cung cấp và nguồn dữ liệu trên mạng để bổ sung các kiến thức và nội
dung cần thiết cho bài học cũng như các kĩ năng cần đạt được.
Mặc dù đều sử dụng công nghệ trong dạy học, trường học thông minh khác với
dạy học từ xa, điểm khác biệt cơ bản nằm ở sự tương tác vật lý với những người
học khác. Đối với mô hình giáo dục từ xa, học sinh có thể tự học một mình hoặc
có sự liên hệ trực tiếp với giáo viên thông qua các bài giảng hoặc hỗ trợ trực tuyến
còn với trường học thông minh thì hiện tại học sinh học tập trung theo lớp và chia
sẻ với nhau các nội dung kiến thức thu thập được thông qua các phương tiện công
nghệ để hoàn thành cách bài tập, nhiệm vụ được giao. Trong tương lai gần, trường
học thông minh nên được phát triển theo các hướng linh hoạt để sự tương tác giữa
học sinh và giáo viên cũng như việc tham gia các hoạt động nhóm trên lớp vẫn có
thể diễn ra bình thường dù học sinh không có mặt tại lớp học.
3. Các yếu tố quyết định của trường học thông minh
Để vận hành trường học thông mình thì yếu tố đầu tiên quyết định sự thành
công của trường học thông minh là phải có cơ sở hạ tầng công nghệ ổn định để vận
hành. Các hệ thống thư viện trực tuyến, phần mềm dạy học, phần mềm hỗ trợ, hệ
thống quản lý và hỗ trợ trực tuyến phải đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng.
Bên cạnh cơ sở hạ tầng công nghệ, theo cuốn The Malaysian smart schools
implementation plan (M. Ministry of Education, 1997) của Bộ Giáo dục và cuốn The
Malaysian smart school: A conceptual blueprint (Government, 1997) của Chính phủ
Malaysia năm 1997, các yếu tố sau được xem là nền tảng cho một trường học thông minh:
- Chương trình học phải linh hoạt, giúp học sinh có thể phát triển toàn diện, hình
thành và phát triển tư duy phản biện, nhận biết được sự kết nối giữa các môn
học khác nhau. - Phương pháp giảng dạy linh hoạt, kết hợp nhiều cách tiếp cận
trong dạy và học, sử dụng các chiến lược học để giúp học sinh nắm bắt được
nền tảng kiến thức và phát triển bền vững.
- Các tài liệu học phải phát huy được khả năng tri nhận, tạo động lực học thông
qua sự kết hợp giữa các mạng lưới công nghệ, giáo viên và các phần mềm tài
liệu. Tư liệu và nội dung kiến thức của trường học thông minh vì thế cũng có
sự khác biệt so với các trường truyền thống.
- Hình thức và cách thức đánh giá học sinh cũng phải khác biệt và linh hoạt.
Học sinh được đánh giá toàn diện về kĩ năng, kiến thức, năng lực và năng
khiếu thông qua các hoạt động và bài tập thường xuyên trên lớp. Phụ huynh
được làm quen với cách thức đánh giá của nhà trường và có thể truy cập vào
hệ thống các câu hỏi đánh giá được cung cấp trực tuyến để cập nhật thông tin
học tập của con cái.
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
46
4. Triển khai trường học thông minh ở Malaysia và Singapore
Malaysia
Malaysia bắt đầu triển khai chương trình trường học thông minh vào tháng 8
năm 1996 khi nước này khởi động chương trình Siêu hành lang đa phương tiện
(Multimedia Super Corridor). Mục tiêu của đề án không chỉ dừng lại ở mục đích
định hướng và trang bị năng lực về công nghệ và khoa học cho học sinh để chủ
động đáp ứng được các yêu cầu về nguồn nhân lực trong kỉ nguyên công nghệ mà
còn hướng đến thay đổi căn bản và toàn diện cách thức giáo dục; chuyển từ văn hóa
thi cử sang văn hóa tư duy và tri thức sáng tạo.
Có thể nói, một trong những mục tiêu quan trọng mà thủ tướng Malaysia
Mahathir Mohamet đặt ra khi triển khai chương trình lúc đó là chuyển đổi chương
trình giảng dạy nhằm thiết kế ra các chương trình giáo dục giúp cho người học biết
cách học trong suốt cuộc đời mình trong thế kỉ XXI (Vicziany & Puteh, 2004).
Bốn môn học gồm: ngôn ngữ tiếng Anh, ngôn ngữ Malay, Khoa học, Toán đã
được thử nghiệm tại 87 trường trong chương trình (kế hoạch ban đầu là 90 trường
nhưng do 3 trường mới không kịp hoàn thành đúng tiến độ nên số lượng thực tế triển
khai là 87). Các trường này được hỗ trợ xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin; giáo
viên và hiệu trưởng được tập huấn để sử dụng ICT trong giảng dạy và quản lý; các
trung tâm dữ liệu và bộ phận hỗ trợ được thành lập và thử nghiệm từ năm 1999 đến
năm 2002 trước khi đưa ra áp dụng máy tính hóa đại trà cho hơn 10.000 trường trên
cả nước trong 3 năm kế tiếp (2002 - 2005). Theo dự kiến, quy hoạch tổng thể của
chương trình gồm 4 giai đoạn: giai đoạn thử nghiệm (1999 - 2002), giai đoạn sau thử
nghiệm (2002 - 2005), giai đoạn áp dụng đại trà (2005 - 2010), giai đoạn củng cố và
ổn định (2010 - 2020) (Abdullah, 2006). Bộ Giáo dục Malaysia đã cung cấp rất nhiều
tài liệu học tập, đĩa CD, các website đa phương tiện v.v. phục vụ cho các trường học.
Tổng cộng 3778 đầu sách về dạy và học đã được xuất bản và chuyển về các trường
trong suốt giai đoạn 1999 - 2008, giáo viên được sử dụng các hệ thống dữ liệu kĩ
thuật số, tham gia các diễn đàn mạng để hỗ trợ cho việc dạy và học (Said, 2009).
Mặc dù chương trình trường học thông minh của Malaysia đã thu được nhiều
kết quả khả quan, chương trình cũng bộc lộ nhiều vấn đề khi triển khai. Một trong
những khó khăn nổi cộm khi triển khai là phần mềm học tập (courseware) không phù
hợp và chưa đáp ứng được nhu cầu học nâng cao của học sinh do Bộ giáo dục và Đào
tạo không tham vấn giáo viên và học sinh trước khi phát triển các phần mềm giáo dục
(Hamzah, Ismail, & Embi, 2009). Khó khăn thứ hai là năng lực sử dụng công nghệ
của giáo viên khá hạn chế mặc dù đã được tập huấn, nhiều giáo viên không biết khi
nào thì sử dụng công nghệ và sử dụng thế nào cho hợp lí (Ali, Nor, Hamzah, & Alwi,
2006). Bên cạnh đó, việc thiếu kinh phí, thiếu thời gian để chuẩn bị giáo án trên máy
47
tính hay đơn giản là không muốn sử dụng công nghệ để dạy học của giáo viên cũng là
các yếu tố cản trở việc sử dụng ICT trong dạy và học (Nawawi, Ayub, Ali, Yunus, &
Tarmizi, 2005; Thang, Hall, Murugaiah, & Azman, 2011). Trong bài viết năm 2013,
Ibrahim đã đưa kết quả của một loạt khảo sát năm 2010 và 2011 đánh giá về hiệu
quả của các chương trình bồi dưỡng giáo viên và việc học tập của học sinh. Các số
liệu cho thấy tỉ lệ giáo viên nhận được sự hỗ trợ của các nhà quản lý tại trường rất
thấp (23% - 29%) và hiệu trưởng chưa thể hiện được khả năng tích hợp công nghệ
vào quá trình dạy và học tại trường mình quản lý. Thậm chí, báo cáo năm 2012 của
UNESCO còn cho thấy việc ứng dụng ICT chưa đạt được nhiều kết quả mong đợi và
chưa đi xa hơn việc sử dụng các ứng dụng xử lý văn bản như một công cụ để giảng
dạy (Ibrahim, Razak, & Kenayathulla, 2013).
Singapore
Singapore tiến hành triển khai sử dụng công nghệ (IT) vào giảng dạy sau khi
Malaysia triển khai mô hình trường học thông minh. Với quan điểm IT sẽ hỗ trợ
cho người học có cơ hội tự học ở bất kì địa điểm hoặc thời gian nào, Singapore
đã tiến hành bốn cuộc quy hoạch tổng thể: đợt quy hoạch công nghệ lần một với
tên gọi “building foundation” (xây dựng nền tảng) từ 1997 - 2002, đợt thứ hai lấy
tên ‘seeding innovation’ (gieo hạt đổi mới) từ 2003 - 2008, đợt thứ ba với chủ đề
strengthening and scaling (tăng cường và nhân rộng) từ 2009 - 2014, và đợt thứ 4
với tầm nhìn “deepening learning, sharpening practices” (tăng cường học tập, thực
hành sắc nét) từ năm 2015 đến các năm tiếp theo.
Năm 1997, Singapore lần đầu tiến hành triển khai thí điểm trên diện rộng xây
dựng hạ tầng công nghệ thông tin trong giảng dạy và trang bị cho giáo viên các kĩ
năng cần thiết để ứng dụng công nghệ trong bài giảng của mình. Trung bình mỗi
giáo viên được đào tạo từ 30 - 50 giờ/năm về kĩ năng IT cơ bản, ICT được lồng
ghép trong các chương trình dạy học, có tới 30% các môn học học lồng ghép các
bài giảng kết hợp ICT. Chính phủ đã đầu tư để mỗi trường học có tối thiểu hai
phòng máy tính, mạng có dây, hỗ trợ công nghệ và tài nguyên kĩ thuật số để hỗ
trợ việc dạy và học. Bên cạnh đó, tất cả các trường đều được tham gia mạng lưới
chung và kết nối Internet. Tỉ lệ giáo viên có máy tính là 2:1 nghĩa là cứ 2 giáo viên
dùng chung một máy tính, tỉ lệ của học sinh tiểu học là 6:1 và trung học cơ sở là 5:1
(Chew, 2006). Một mặt chính phủ khuyến khích các cấp học ứng dụng ICT trong
các môn học, mặt khác đầu tư cho các trường đại học, các viện nghiên cứu mũi
nhọn để đi đầu đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các khía cạnh sư phạm của học
trực tuyến đồng thời hợp tác với các đối tác, công ty công nghệ để khai phá thêm
các công nghệ đổi mới của lĩnh vực này (Kong, Chan, Huang, & Cheah, 2014).
Ngoài việc trang bị cơ sở hạ tầng công nghệ, cung cấp máy móc, bồi dưỡng giáo
TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC...
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
48
viên, Singapore còn đưa môn học về công nghệ thành một mô-đun bắt buộc trong
đào tạo của Học viện giáo dục quốc gia (NIE).
Trong kế hoạch năm năm lần hai (2003 - 2008), Singapore đã tích hợp công
nghệ thông tin vào các trường đào tạo giáo viên và tiếp tục nâng cấp hạ tầng công
nghệ. Chính phủ khuyến khích và đầu tư cho những trường nghiên cứu chương
trình liên quan đến e-learning, thúc đẩy các phương pháp sử dụng ICT với mong
muốn đạt được khoảng 5% của tổng số 360 trường, 25 ngàn giáo viên và nửa triệu
học sinh có thể trở thành nòng cốt để lan tỏa sự đổi mới giáo dục thông qua ICT
giai đoạn 2 này (Singapore. Ministry of Education, 2003). Để thúc đẩy hơn nữa quá
trình đổi mới giáo dục, năm 2007 Singapore đã triển khai chương trình “Các trường
học tương lai” (Future schools) cho tổng số 8 trường tham gia đề án này. Các
trường được cấp thêm kinh phí để hợp tác với các trường đại học, các ngành công
nghiệp để thúc đẩy ICT trong dạy và học và đều thử ngiệm các đề án thực nghiệm
trong toàn trường nhằm giúp cho chính phủ có cái nhìn toàn diện về các khía cạnh
liên quan đến việc dạy và học. Từ những kết quả đánh giá trong quá trình triển khai,
chính phủ sẽ xem xét các hình thức để mở rộng quy mô trên toàn hệ thống giáo
dục vào thời điểm thích hợp. Những chương trình trường học tương lai này không
chỉ tạo ra một làn sóng văn hóa sử dụng công nghệ thông tin ở các trường được thí
điểm mà còn giúp gây dựng nhóm các nhà giáo - nhà nghiên cứu nòng cốt biết cách
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trong dạy và học, có khả năng truyền bá kinh
nghiệm và các phương pháp sáng tạo cho người khác (Kong et al., 2014).
Trong lần quy hoạch tổng thể thứ 3 (2009 -2014), ICT được tích hợp nhiều hơn
nhằm giúp học sinh có thêm các trải nghiệm học tập, mục tiêu của lần quy hoạch
này là để đảm bảo tất cả các học sinh của Singapore đều đạt chuẩn về kĩ năng và
ứng dụng ICT thông qua hệ thống đánh giá tự động được cung cấp cho các trường
để họ có thể chủ động trong hoạt động đánh giá. Phương pháp kiểm tra đánh giá
học sinh vì thế cũng được thực hiện dưới nhiều hình thức chứ không bó buộc theo
phương pháp đánh giá truyền thống. Bên cạnh đó, chính phủ tập trung đào tạo nâng
cao năng lực cho lãnh đạo, quản lý trường học thông qua các khóa đào tạo, chia sẻ
của nhóm quản lý của các trường trong chương trình “Trường học tương lai” ở giai
đoạn 2. Song hành cùng với các hoạt động dành cho các nhà quản lý và học sinh,
chính phủ cũng thiết lập các chương trình cố vấn ICT cho giáo viên theo hình thức
vết dầu loang. Mỗi trường sẽ chọn 4 giáo viên để tham gia chương trình tập huấn
chuyên sâu về ICT, sau khóa tập huấn mỗi người có trách nhiệm hướng dẫn và đào
tạo ít nhất một người khác ở trường về công nghệ để có thể hỗ trợ cho những giáo
viên khác khi cần thiết (Singapore. Ministry of Education, 2008).
Lần quy hoạch tổng thể thứ 4 (2015 đến các năm tiếp theo), tầm nhìn của
dự án là tập trung vào chất lượng học tập, nuôi dưỡng và phát triển “người
49
học kĩ thuật số có trách nhiệm và sẵn sàng cho tương lai”. Mục tiêu của lần
quy hoạch này là tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng ICT đạt chuẩn, có khả
năng mở rộng, đáng tin cậy và luôn sẵn sàng để tạo ra môi trường học tập chất
lượng giúp cho học sinh học bất cứ đâu và bất cứ lúc nào thông qua bốn cách
tiếp cận. Thứ nhất, tích hợp ICT sâu hơn trong chương trình, trong đánh giá
và sư phạm nhằm tích hợp hệ thống công nghệ đầu cuối vào các lĩnh vực, chủ
đề học tập, khai thác công nghệ để kiểm tra đánh giá và hỗ trợ vượt ra ngoài
chương trình chính thống, cung cấp tài nguyên học tập trực tuyến chất lượng,
giáo dục người học kĩ thuật số. Thứ hai, hỗ trợ phát triển chuyên nghiệp, bền
vững thông qua sử dụng công nghệ, tăng cường phát triển cộng đồng học tập
mạng, phát triển chương trình ICT. Thứ ba, nghiên cứu chuyển giao, đổi mới
và mở rộng thông qua việc rà soát các vấn đề liên quan đến ứng dụng công
nghệ, khuyến khích giáo viên chia sẻ kinh nghiệm, ươm mầm hạt giống đổi
mới giáo dục từ các ứng dụng nghiên cứu vào thực tế lớp học. Thứ tư, kết nối
hệ sinh thái học tập ICT thông qua tăng cường kết nối vật lý và xây dựng, kết
nối hệ sinh thái văn hóa xã hội thông qua sự hợp tác với bên ngoài (Singapore.
Ministry of Education, 2014)
5. Kết luận
Từ kinh nghiệm của hai nước Malaysia và Singapore trong việc triển khai
ứng dụng công nghệ vào giảng dạy thông qua mô hình nhà trường thông minh có
thể nhận thấy cần có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho các yếu tố thiết yếu như cơ sở hạ
tầng công nghệ, chương trình, tài liệu, tập huấn đào tạo giáo viên và quản lý v.v.
để đảm bảo hiệu quả khi vận hành. Bên cạnh đó cần có hệ thống giám sát, đánh
giá hiệu quả thường xuyên để có các điều chỉnh kịp thời. Tại Việt Nam, thông qua
đề án 2020, hệ thống máy tính, bảng tương tác, máy chiếu, TV đã được triển khai
lắp đặt tại các trường trong hệ thống giáo dục và một số chương trình tập huấn về
ICT đã tiến hành từ năm 2010. Tuy nhiên để có thể triển khai một cách bài bản và
có hệ thống thì cần có sự tham vấn các chuyên gia, giáo viên, học sinh trước khi
xây dựng chương trình tổng thể, cần có lộ trình và thử nghiệm mô hình trường học
thông minh trước khi đưa vào áp dụng đại trà.
Tài liệu tham khảo
1. Abdullah, A. (2006). The Malaysian smart school initiative: Deconstructing secondary
education. Digital learning, 11(12), 6-8.
2. Ali, W. Z. W., Nor, H. M., Hamzah, A., & Alwi, N. H. (2006). Conditions Facilitating
The Implementation of Information Communication Technology Integration in
Malaysian Smart School. Frontiers in artificial intelligence and applications, 151, 443.
TRƯỜNG HỌC THÔNG MINH TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI GIÁO DỤC...
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
50
3. Chew, L. K. (2006). E-learning Practices in Singapore. Diakses dari
digitallearning. in/articles/article-details. asp.
4. Government, M. (1997). The Malaysian smart school: A conceptual blueprint.
5. Hamzah, M., Ismail, A., & Embi, M. (2009). The impact of technology change in
Malaysian smart schools on Islamic education teachers and students. International
Journal of Human and Social Sciences, 4(11), 824-836.
6. Ibrahim, M. S., Razak, A. Z. A., & Kenayathulla, H. B. (2013). Smart principals and
smart schools. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 103, 826-836.
7. Kong, S. C., Chan, T.-W., Huang, R., & Cheah, H. M. (2014). A review of e-Learning
policy in school education in Singapore, Hong Kong, Taiwan, and Beijing: implications
to future policy planning. Journal of Computers in Education, 1(2-3), 187-212.
8. Ministry of Education, M. (1997). The Malaysian smart schools implementation plan.
9. Ministry of Education, S. (2003). Education statistics digest 2003. Singapore: Ministry
of Education.
10. Ministry of Education, S. (2008). Third Master Plan for ICT Education (2009-2014).
https://ictconnection.moe.edu.sg/masterplan-4/our-ict-journey/masterplan-3
11. Ministry of Education, S. (2014). The fourth Master Plan for ICT in Education.
https://ictconnection.moe.edu.sg/masterplan-4/vision-and-goals
12. Nawawi, M. H., Ayub, A. F. M., Ali, W. Z. W., Yunus, A. S. M., & Tarmizi, R. A.
(2005). Teachers’ perceptions on the conditions facilitating the use of computers in
teaching mathematics. Malaysian Online Journal of Instructional Technology, 2(3),
88-98.
13. Omidinia, S., Masrom, M., & Selamat, H. (2012). Determinants of smart school system
success: a case study of Malaysia. International Journal of Academic Research, 4(1).
14. Perkins, D. N. (1992). Smart schools: From training memories to educating minds:
New York: The Free Press.
15. Said, H. B. H. (2009). Developing ICT in Education Policies and Master Plans:
Malaysia Ministry Of Education Open Source Learning Management System in
Schools. Educational Technology Division, Ministry Of Education Malaysia.
16. Soltani, M. (2012). The structure of smart schools in the educational system. Journal
of Basic and Applied Scientific Research, 2(6), 6250-6254.
17. Thang, S. M., Hall, C., Murugaiah, P., & Azman, H. (2011). Creating and maintaining
online communities of practice in Malaysian smart schools: Challenging realities.
Educational Action Research, 19(1), 87-105.
18. Vicziany, M., & Puteh, M. (2004). Vision 2020, the multimedia supercorridor and
Malaysian universities. Paper presented at the 15th Biennial Conference of the Asian
Studies Association of Australia.
51
SMART SCHOOLS IN EDUCATION INNOVATION: FROM
MALAYSIA AND SINGAPORE’S STORIES
Nguyen Thuy Nga1
Abstract: In information and technology era, technology plays an important
role in reforming traditional teaching approaches. In smart schools, teacher
no longer controls students’ learning style and be the only source for
knowledge because students can actively search for the information they
need to broaden their knowledge and enhance their capacity with the support
of ICT. Smart school is an approach using technology to meet the emerging
needs of the society to bring about the core change in teaching and learning.
This paper presents some related components of smart school and reviews
the process of transforming education in Malaysia and Singapore.
Keywords: Smart school; ICT, e-learning; Malaysia; Singapore
1 University of Education
Email: thuynga.nguyen11@gmail.com
Tel: 0964.757807
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- truong_hoc_thong_minh_trong_boi_canh_doi_moi_giao_duc_tu_cau.pdf