Triết lí giáo dục và vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam

Triết lí giáo dục là nền tảng để phát triển giáo dục bền vững. Những quan niệm

mới về quyền con người trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện

để xây dựng một nền giáo dục hài hoà giữa mục tiêu đào tạo nhân lực phục vụ xã

hội với mục tiêu phát triển con người. Hai đặc điểm cơ bản của nền giáo dục này là

thực học và dân chủ. Để đáp ứng mục tiêu đào tạo nhân lực phục vụ xã hội, thực học

có nghĩa là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong những ngành kinh tế - kĩ thuật

có tính ứng dụng cao; dân chủ là đảm bảo quyền và trách nhiệm của xã hội tham gia

phát triển và quản lí giáo dục. Để đáp ứng mục tiêu phát triển con người, thực học

có nghĩa là chuyển đổi từ chương trình theo định hướng nội dung thành chương trình

theo định hướng phát triển năng lực; dân chủ thể hiện ở sự khai phóng, tức là cởi mở

về tư tưởng, học thuật, tạo điều kiện cho người học sáng tạo và phát triển phù hợp

với khả năng, nguyện vọng của mình.

pdf11 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Triết lí giáo dục và vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biết và kĩ năng, phục vụ cho công việc của mình, không nên quan niệm cứng nhắc giáo dục thường xuyên phải tổ chức thành những lớp học riêng, học phải lấy bằng, mà cần quan niệm là tuỳ điều kiện thời gian của mình và khả năng tiếp nhận của cơ sở giáo dục, người học có thể theo học cùng sinh viên chính quy hoặc học lớp riêng. Nhưng để đảm bảo giáo dục thường xuyên có mặt bằng ngang với mặt bằng đào tạo chính quy, những người có nguyện vọng học lấy bằng hay tín chỉ cần thi học phần, thi tốt nghiệp chung với sinh viên chính quy. 3.2.3. Về nội dung và phương pháp dạy học, dân chủ thể hiện ở sự khai phóng, tức là cởi mở về tư tưởng, học thuật, tạo điều kiện cho người học sáng tạo và phát triển phù hợp với khả năng, nguyện vọng của mình. Có khai phóng thì giáo dục và xã hội mới tạo ra được những lớp người dám nghĩ, dám làm. Nhiều học giả nhận xét rằng người Việt Nam chúng ta thường tiếp thu nhanh và có nhiều sáng kiến nhưng năng lực tưởng tượng không cao, do đó ít có khả năng tạo ra những bước đột phá. Từ mô hình xã hội đến phát triển kinh tế, công nghệ, chúng ta thường nhập khẩu hoặc mô phỏng sáng kiến nước ngoài. Nguyên nhân hẳn không phải là hạn chế về năng lực tư duy mà là ở sự kìm hãm tự do tư tưởng và sự thiếu thốn về cơ sở vật chất kéo dài hàng nghìn năm từ chế độ phong kiến phương Đông cho đến trước thời kì Đổi mới. Hơn lúc nào hết, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục là thời cơ thuận lợi để giải phóng tư duy con người khỏi tầm nhìn hạn hẹp, tạo ra những bước ngoặt về chất lượng nhân lực, góp phần thúc đầy phanh sự phát triển của đất nước và tiến bộ của nhân loại. Liên quan đến phát triển cá nhân, UNESCO đề cao tư tưởng “Học để tự khẳng định mình”, hay nói cách khác là học để trở thành chính mình. Theo lí luận giáo dục học, mỗi người đều có tố chất riêng và tố chất đó là hạt mầm đầu tiên để phát triển tài năng. H. Gardner cho rằng con người có đến 8 loại trí thông minh khác nhau: KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 160 trí thông minh logic, trí thông minh không gian, trí thông minh vận động, trí thông minh giao tiếp, trí thông minh nội tâm, trí thông minh tự nhiên, trí thông minh ngôn ngữ và trí thông minh âm nhạc [5]. Mỗi người có thể thiên về một loại trí thông minh. Nhà trường cần thực hiện giáo dục phân hoá tạo điều kiện để mỗi học sinh tự phát hiện và phát triển trí thông minh của mình. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 là một sự thể hiện giáo dục phân hoá, phù hợp với yêu cầu xây dựng một nền giáo dục mở của Nghị quyết 29. Chương trình chú trọng cả hình thức phân hoá trong (phân hoá vi mô) và phân hoá ngoài (phân hoá vĩ mô). Phân hoá trong thể hiện chủ yếu qua định hướng về phương pháp giáo dục, nhấn mạnh tính tích cực hoá hoạt động của người học, khuyến khích học sinh tích cực tham gia vào các hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, và qua định hướng về đánh giá kết quả giáo dục, nhấn mạnh bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh. Phân hoá ngoài thể hiện ở các môn học tự chọn, các chủ đề, chuyên đề học tập lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp. Ở giai đoạn giáo dục cơ bản, bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện giáo dục toàn diện và tích hợp, Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 thiết kế một số môn học và hoạt động giáo dục theo các chủ đề, tạo điều kiện cho học sinh lựa chọn những học phần hoặc chủ đề phù hợp với sở thích và năng lực của bản thân. Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, bên cạnh một số môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc (gồm Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục thể chất, Giáo dục Quốc phòng và an ninh, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, Nội dung giáo dục của địa phương), học sinh được lựa chọn những môn học và chuyên đề học tập phù hợp với nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của mình. Các môn học lựa chọn được chia thành 3 nhóm môn: nhóm môn khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục kinh tế và pháp luật), nhóm môn khoa học tự nhiên (Vật lí, Hoá học, Sinh học), nhóm môn công nghệ và nghệ thuật (Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật). Mỗi học sinh được chọn 5 môn trong 3 nhóm môn này với điều kiện ở mỗi nhóm môn phải chọn ít nhất một môn. Ngoài ra, mỗi năm học, học sinh chọn học chuyên đề học tập của 3 môn bất kì, mỗi môn 3 chuyên đề với tổng số tiết chuyên đề cho mỗi môn là 35 tiết/năm học. Với hệ thống chuyên đề này, học sinh có được cơ hội học sâu một số nội dung chuyên môn nâng cao, phù hợp với những ngành nghề mà học sinh định theo đuổi trong tương lai. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cũng thể hiện triết lí “Học để cùng chung sống” của UNESCO. Càng ngày nhân loại càng đề cao giá trị “Tôn trọng”. Nhà trường phải dạy cho học sinh cách tôn trọng sự khác biệt của nhau, miễn là sự khác 161 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG biệt đó không vi phạm đạo đức, không vi phạm pháp luật. Nói rộng ra, mỗi công dân trong thời đại toàn cầu hoá cần biết tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người, giữa các nền văn hoá, để chung sống, hợp tác, phấn đấu vì sự tiến bộ của nhân loại. Tôn trọng sự khác biệt cũng là một biểu hiện của nền giáo dục dân chủ. 4. Lời kết Giáo dục là một bộ phận của xã hội, vì vậy sự nghiệp đổi mới lĩnh vực này chỉ có thể thành công với điều kiện kinh tế - xã hội được đổi mới. Có thể thấy, cho đến nay, nguyên nhân sâu xa nhất hạn chế chất lượng giáo dục của nước ta là nền kinh tế và thị trường lao động chưa tạo được sức hấp dẫn và áp lực buộc giáo dục phải thay đổi. Với một nền kinh tế chỉ dựa trên lắp ráp, gia công, khai khoáng, nông nghiệp cổ truyền cùng dịch vụ nhà hàng, khách sạn, chuyển nhượng đất đai thì mục tiêu đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao không có cơ sở thực tế, do đó giáo dục sẽ không có động lực thực hiện mục tiêu này. Bên cạnh đó, nền kinh tế, nhất là khu vực kinh tế Nhà nước, chưa vận hành theo đúng quy luật kinh tế thị trường, từ đó đẻ ra một thị trường lao động không công bằng và một nền giáo dục ứng thí, đi học chỉ cốt lấy bằng nhằm đáp ứng “tiêu chuẩn cán bộ”, chứ không cần thực học. Phải tìm cách thích nghi với một thị trường lao động như vậy, lớp trẻ nếu không bị tha hoá về nhân cách thì cũng ít có động cơ chính đáng trong học tập, rèn luyện để hoàn thiện nhân cách của mình. Cho nên, muốn thực hiện được mục tiêu giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục thì Nhà nước phải đẩy mạnh cải cách kinh tế và đổi mới chính sách tuyển dụng, sử dụng cán bộ; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh, nhân ái, tạo môi trường xã hội tích cực để hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho tuổi trẻ học đường. Đổi mới một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến hàng triệu giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục và hàng chục triệu người học như giáo dục không phải dễ dàng. Tuy nhiên, đó là công việc nhất thiết phải làm để thực hiện ước nguyện đưa dân tộc ta “bước tới đài vinh quang, sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VÌ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 162 2. Hiến pháp năm 1992. 3. Hiến pháp năm 2013. 4. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003). “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, tập 3, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội. 5. Howard G., (2013). “Cơ cấu trí khôn”, NXB Tri thức, Hà Nội. 6. Luật Giáo dục (2005). 7. Luật Giáo dục (2019). 8. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (Bùi Đức Thiệp dịch) (2008). “Triết học giáo dục hiện đại”. NXB Chính trị Quốc gia. 9. Mác C và Angghen Ph. Toàn tập, t.4. NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1995 10. Nguyễn Mạnh Tường (1995). “Lí luận giáo dục châu Âu” (thế kỉ XVI, XVII, XVIII). NXB Giáo dục, Hà Nội. 11. Nguyễn Xuân Trung, Triết lí giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến Hồ Chí Minh, giao-duc. 12. Phạm Minh Hạc, Phạm Minh Hạc (2013). “Triết lí giáo dục: Thế giới và Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftriet_li_giao_duc_va_van_de_doi_moi_can_ban_toan_dien_giao_d.pdf
Tài liệu liên quan