Rối loạn mất tập trung và tăng động (ADHD) hiện chưa biết rõ
nguyên nhân gây bệnh. Trong điều trị hiện một số nước cho
dùng thuốc tâm thần -thần kinh và mang lại lợi ích trước mắt.
Tuy nhiên, trên thực tế loại thuốc này vẫn chưa được nghiên
cứu đầy đủ về tính hiệu quả an toàn khi sử dụng lâu dài với
ADHD.
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Trẻ thiếu tập trung, tăng động: Dùng thuốc tâm thần kinh -Nên hay không?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trẻ thiếu tập trung, tăng động:
Dùng thuốc tâm thần kinh - Nên hay không?
Rối loạn mất tập trung và tăng động (ADHD) hiện chưa biết rõ
nguyên nhân gây bệnh. Trong điều trị hiện một số nước cho
dùng thuốc tâm thần - thần kinh và mang lại lợi ích trước mắt.
Tuy nhiên, trên thực tế loại thuốc này vẫn chưa được nghiên
cứu đầy đủ về tính hiệu quả an toàn khi sử dụng lâu dài với
ADHD.
Biểu hiện của trẻ bị ADHD: suy nghĩ cứ lướt qua, không đọng lại
trong bộ nhớ (thiếu tập trung) nên trẻ liên tục chuyển từ hoạt động
dang dở này sang hoạt động dang dở khác (tăng động). Ví dụ: từ
nhà, trẻ có ý nghĩ xuống sân chơi, nhưng trên đường đi không nhớ
ý nghĩ đó, mà xuất hiện ý nghĩ mới, nên rẽ vào một phòng nào đó,
rồi đến đó lại không nhớ để làm gì, mà xuất hiện ý nghĩ mới khác,
lại rẽ theo lối khác nữa. Tương tự thế, trẻ không nhớ để hoàn thành
điều bố mẹ dặn dò, học tập sa sút. Trẻ ADHD thiếu khả năng suy
nghĩ khi hành động (như chạy ra đường nhặt bóng mà không biết
sẽ bị vướng xe cộ). Trẻ bị ADHD có tính khí thay đổi thất thường,
dễ nổi xung, cáu gắt, bực tức, khóc lóc vô lối. Một số thuốc thường
được dùng là:
Amphetamin: Là thuốc kích thích tâm thần tăng sự chú ý, tỉnh
táo, giảm mệt mỏi. Một số ít nước dùng thuốc này cho người bị
ADHD. Tuy nhiên thuốc lại có những tác hại:
Gây rối loạn tâm thần và các chức năng khác: Lúc đầu làm tăng,
bóp méo cảm giác như cảm thấy tự tin, có quyền lực; tỉnh táo,
không ngủ, quên ngủ; không kiểm soát được cử động (lắc lư), hoạt
động tăng; nói nhiều, không ý thức được lời nói dễ giao tiếp thân
thiện nhưng cũng dễ gây xung đột) tức là tạo ra trạng thái hứng
khởi, cuồng nhiệt giả tạo. Sau đó, đỏ bừng mặt, khô miệng, nhịp
tim nhanh, tăng huyết áp, tăng nhịp thở, đổ mồ hôi, tiêu chảy, táo
bón, mờ mắt, co giật, miệng khô, ngứa, rối loạn cương tức là tạo ra
trạng thái ngộ độc, suy kiệt.
Gây hội chứng lệ thuộc thuốc, nghiện: Làm tăng dopamin,
norepinephrin, serotonin ở não; đặc biệt loại serotonin giống với
serotonin tại vùng bờ rìa và vỏ não, tác động lên thụ thể
glutamatergic (kéo dài từ vùng bụng đến vùng trước trán), gây nên
sự "tưởng thưởng, lạc thú". Khi ngừng thuốc xuất hiện các triệu
chứng: lo âu, trầm cảm, mệt mỏi, ngủ nhiều, thèm ăn, cáu kỉnh,
kích động, có ý nghĩ tự sát.
Nên dùng liệu pháp tâm lý với trẻ tăng động.
Methylphedinat (MPH):
Là thuốc kích thích tâm thần (như amphetamin). Khá nhiều nước
cho phép dùng, thậm chí còn là thuốc chủ yếu, dùng phổ biến cho
ADHD. Về nghiên cứu: giả định ADHD là trạng thái tạo nên bởi
sự kích thích, MPH (cũng như amphetamin) ức chế sự tái nắm bắt
dopamin, norepinephrin làm tăng lượng tự do của các chất này
trong não, kích hoạt sự tập trung vào các khu vực nhất định của
não làm cho não hoạt động có hiệu quả hơn (không mất tập trung,
không tăng động). Gần đây, các nghiên cứu cho thấy: dùng tăng
liều MPH thì sẽ giảm các hoạt động thần kinh tự phát (giảm tính
nhạy cảm của các tế bào thần kinh với các tín hiệu đến từ
hypocampus). Thử nghiệm thấy MPH có một số hiệu quả khiêm
tốn trên ADHD nhưng chưa có thử nghiệm nào đủ thời gian và so
sánh với giả dược, nên chưa có cơ sở khoa học chắc chắn về hiệu
quả, độ an toàn. Thêm nữa, liều lượng trong các thử nghiệm thay
đổi nhưng chưa đưa ra được liều tối ưu. Do vậy, tuy một số nước
cho phép dùng cho ADHD nhưng cần thận trọng. Thuốc có thể
gây:
Hội chứng rối loạn tâm thần bao gồm: tâm thần phân liệt, hoang
tưởng, ảo giác (về âm thanh, thị giác), có cảm giác người khác
đang hại mình, lo âu hay quá thoải mái (phởn phơ), dễ nhạy cảm,
nhầm lẫn, hoang tưởng kiểu paranoid (cho mình có ưu thế, kích
động, hung hăng bạo lực, tự cho mình có tội).
Gây hội chứng lệ thuộc thuốc, nghiện bao gồm các hội chứng rối
loạn tâm thần (nói trên), trầm cảm, đặc biệt làm cho bệnh tiến triển
xấu đi.
Ảnh hưởng một số chức năng khác: Thay đổi huyết áp, đau thắt
ngực, rối loạn nhịp tim, tim nhanh, hồi hộp, chóng mặt, buồn ngủ,
đổ nhiều mồ hôi, mụn, buồn nôn, tăng cảm (nổi mẩn, mề đay, sốt,
tróc da), ban đỏ nhiều dạng (xuất huyết, giảm tiểu cầu, viêm mạch
hoại tử), chậm phát triển thể chất, chiều cao. Dùng quá liều sẽ bị cả
rối loạn tâm thần.
Có thể làm thay đổi cấu trúc và chức năng não: Đã thấy trên súc
vật thí nghiệm. Nếu trẻ không bị ADHD mà dùng MPH thì có thể
bị điều này mà không biết.
Atomoxetin (stratte ra, attentin, tomoetin): Thuốc mới chỉ
nghiên cứu trên thanh thiếu niên, người lớn mà chưa nghiên cứu
cho trẻ dưới 6 tuổi. Một số nước cho dùng trong ADHD, song
không phổ biến như MPH. Thuốc có thể gây:
Hội chứng rối loạn tâm thần: Trầm cảm (nếu dùng kéo dài), thay
đổi tâm trạng, mất ngủ, hồi hộp, co giật, gây hưng cảm ở thanh
thiếu niên, đặc biệt gây bất thường trong suy nghĩ, tự gây thương
tích, tự sát.
Gây lệ thuộc thuốc, nghiện song nhẹ hơn và ít bị lạm dụng hơn
MPH (chưa nghiên cứu đầy đủ).
Trên các chức năng khác: Tăng huyết áp, tim nhanh, đổ mồ hôi,
buồn nôn, khô miệng, táo bón, giảm thèm ăn, khó tiểu tiện, thay
đổi tính dục, thay đổi thể trọng, ảnh hưởng đến chức năng gan
nhưng có hồi phục. Quá liều sẽ bị buồn ngủ, giãn đồng tử, mờ mắt,
tim nhanh, rối loạn tiêu hóa, kích động, tăng động, có hành vi bất
thường.
Ở một số nước, trẻ ADHD bị cho là không ngoan, khó dạy, buộc
chúng dùng thuốc. Song dùng thuốc lâu dài sẽ gây rối loạn tâm
thần, lệ thuộc thuốc, nghiện, chậm phát triển trí tuệ, về sau không
thể sống bình thường nếu thiếu thuốc, biến thành người thụ động,
làm việc máy móc. Đa số các nhà y học phản đối việc dùng thuốc,
khuyến cáo cần chọn cách giáo dục thích hợp như liệu pháp tâm
lý. Trong thực tế, cách giáo dục thu được một số hiệu quả. Ở nước
ta, không cho phép điều trị ADHD bằng thuốc, nhưng các thuốc
này có trong các khoa tâm thần, thần kinh hay ngoài luồng, có
người đã tự ý dùng. Cần hiểu tác hại trên của thuốc để tránh sử
dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tre_thieu_tap_trung_6903.pdf