Trái phiếu chuyển đổi của Vietcombank hoàn toàn không
đúng nghĩa là trái phiếu chuyển đổi theo thông lệ quốc tế
Trái phiếu chuyển đổi đã xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng
hai năm gần đây.
Ngoại trừ Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Tp.HCM
(CII), các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi chủ yếu
là các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ tài chính như Công ty
Cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI), Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
(MB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài gòn (SCB) và Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).
13 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Trái phiếu chuyển đổi: Chuyện ở Ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trái phiếu chuyển đổi:
Chuyện ở Ta
Trái phiếu chuyển đổi của Vietcombank hoàn toàn không
đúng nghĩa là trái phiếu chuyển đổi theo thông lệ quốc tế
Trái phiếu chuyển đổi đã xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng
hai năm gần đây.
Ngoại trừ Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Tp.HCM
(CII), các doanh nghiệp phát hành trái phiếu chuyển đổi chủ yếu
là các doanh nghiệp trong ngành dịch vụ tài chính như Công ty
Cổ phần chứng khoán Sài Gòn (SSI), Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
(MB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài gòn (SCB) và Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).
Việc áp dụng trái phiếu chuyển đổi vào Việt Nam có một số nhiều
đặc thù khác với thông lệ trên thế giới. Sự nhận thức chưa đồng
đều của các nhà đầu tư cá nhân và sự thiếu minh bạch đang phát
sinh một số vấn đề rắc rối về trái phiếu chuyển đổi và ảnh hưởng
quyền lợi của nhà đầu tư.
Trái phiếu chuyển đổi của Vietcombank: một sản phẩm sáng
tạo?
Tháng 12 năm 2005, Vietcombank phát hành thành công 1.365 tỷ
đồng trái phiếu chuyển đổi với lãi suất bình quân 6%/ năm. Tháng
7 năm 2006, số trái phiếu chuyển đổi này được niêm yết tại Sở
Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Mục tiêu của đợt phát hành trái
phiếu chuyển đổi này chủ yếu nhằm tăng cường nguồn vốn cấp 2
để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn (CAR) theo Quyết định 457/2005
của Ngân hàng Nhà nước.
Trong khi trên thế giới, doanh nghiệp chỉ được phép phát hành
trái phiếu chuyển đổi sau khi phát hành cổ phiếu làm cơ sở xác
định tỷ lệ chuyển đổi thì Vietcombank đã làm được điều ngược
lại. Rất có thể áp lực tăng vốn đáp ứng các tỷ lệ an toàn trong khi
chưa thể tiến hành cổ phần hóa đã giúp Vietcombank thực hiện
được điều “kỳ diệu” này. Trong thực tế trước đây Vietcombank đã
có những cách thức khác như Bộ Tài chính phát hành trái phiếu
đặc biệt tăng vốn nhưng bản chất chỉ là một tờ giấy trao cho
Vietcombank.
Chính vì điều này mà trái phiếu chuyển đổi Vietcombank không
có tỷ lệ chuyển đổi cố định trước. Hơn nữa thời hạn chuyển đổi
cũng không được xác định cụ thể. Do đó, nhà đầu tư không thể
xác định được giá trị nội tại hay giá trị thời gian của quyền mua.
Theo quy định của Vietcombank, nhà đầu tư sẽ được phép dùng
tiền gốc và lãi lũy kế của trái phiếu chuyển đổi để mua cổ phiếu
Vietcombank theo giá trúng thầu bình quân thực tế khi tiến hành
IPO. Như vậy, theo lý thuyết, nếu coi giá bình quân thực tế IPO là
giá hiện hành có thể mua bán cổ phiếu trên thị trường thì giá trị
nội tại (intrinsic value) tại thời điểm chuyển đổi trái phiếu là zero.
Trong trường hợp giá cổ phiếu của Vietcombank ngay sau IPO
cao hơn giá đấu thầu bình quân, giá trị nội tại của quyền mua
chính là phần chênh lệch phải trả để mua cổ phiếu. Tất nhiên
không loại trừ trường hợp giá sẽ giảm sau IPO như Bảo Việt. Lúc
đó quyền mua sẽ có giá trị bằng không và trái chủ hoàn toàn có
quyền không thực hiện quyền chuyển đổi.
Như vậy về mặt khoa học, giá trị quyền mua trái phiếu chuyển đổi
của Vietcombank không thể xác định được. Trái phiếu chuyển đổi
của Vietcombank hoàn toàn không đúng nghĩa là trái phiếu
chuyển đổi theo thông lệ quốc tế. Trên các thị trường phát triển,
khi sản phẩm tài chính không có cơ sở định giá một cách khoa
học, thì sản phẩm tài chính đó thường không được phép lưu
hành cho công chúng. Điều này là hoàn toàn cần thiết nhằm đảm
bảo quyền lợi nhà đầu tư và tăng cường sự minh bạch của thị
trường.
Đặc thù trái phiếu chuyển đổi Việt Nam
Từ thực tế xem xét một số trái phiếu chuyển đổi của các doanh
nghiệp Việt Nam, có thể thấy một số điểm khác biệt so với quốc
tế nói chung.
Thứ nhất, trái phiếu của chúng ta chưa được định mức tín nhiệm.
Do đó rất khó để xác định rủi ro tín dụng hay biên độ rủi ro tín
dụng (credit spread) làm cơ sở tính tỷ lệ chiết khấu định giá trái
phiếu. Chúng ta đang cố gắng thành lập một số công ty định mức
tín nhiệm, song đến nay chưa có sự thành công do nhu cầu thấp
trên thị trường. Chúng ta chưa có khung pháp lý quy định việc
định mức tín nhiệm đối với phát hành trái phiếu ra cho công
chúng và đây là một nhân tố hạn chế sự minh bạch của thị
trường cũng như hạn chế cầu đối với các công ty định mức tín
nhiệm.
Thứ hai, trái phiếu chuyển đổi của hầu hết các công ty đều phát
hành cho cổ đông hiện hữu là có giá chuyển đổi rất ưu đãi, thông
thường bằng mệnh giá. Điều này có nghĩa là quyền mua cổ phiếu
có giá trị nội tại (intrinsic value) rất lớn. Trong khi đó tỷ lệ lãi suất
trả cho trái phiếu không thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động
của doanh nghiệp.
Với giá chuyển đổi (strike price) cố định bằng mệnh giá, khi
chuyển trái phiếu thành cổ phiếu, doanh nghiệp chỉ hạch toán
chuyển nợ sang vốn cổ phần mà không có thặng dư vốn. Điều
này rất khác với quốc tế, khi phát hành trái phiếu chuyển đổi với
giá chuyển đổi xoay xung quanh thị giá hiện hành của cổ phiếu,
mang lại thặng dư vốn lớn cho các cổ đông. Chính vì vậy, quyền
mua trái phiếu chuyển đổi dạng này thực chất là việc cho mua cổ
phiếu ưu đãi bằng mệnh giá dưới hình thức quyền mua có giá trị
nội tại rất lớn.
Thứ ba, trái phiếu chuyển đổi hầu hết có thời hạn chuyển đổi rất
ngắn. Nếu như các trái phiếu chuyển đổi quốc tế có thời hạn 5-10
năm thì các trái phiếu chuyển đổi của Việt Nam thường có thời
hạn chuyển đổi thực tế rất ngắn, thường là dưới 1 năm. Ví dụ trái
phiếu chuyển đổi đợt 1 của ACB phát hành tháng 10/2006 thì sau
5 tháng (tháng 3/2007), 1.100 tỷ trong tổng số 1.650 tỷ trái phiếu
chuyển đổi được chuyển thành cổ phiếu.
Một trong những lý do phát hành trái phiếu chuyển đổi của các
ngân hàng có thể là tăng cường tỷ lệ an toàn vốn để cho phép
tăng trưởng quy mô tài sản, do trái phiếu chuyển đổi có thể được
tính vào vốn cấp 2. Tuy nhiên với thời hạn chuyển đổi ngắn thì tại
sao ngân hàng không phát hành luôn cổ phiếu?
Lý do khả thi nhất có thể là doanh nghiệp cần đáp ứng tỷ lệ an
toàn vốn hoặc cần vốn kinh doanh ngay song chọn thời điểm tăng
trưởng tốt để chuyển đổi nhằm làm đẹp các chỉ số EPS và P/E.
Quả thực ACB có sự tăng trưởng rất ấn tượng trong năm 2007
khi lợi nhuận tăng mạnh nhằm “xóa nhòa” hiệu ứng pha loãng khi
tăng số lượng cổ phiếu lưu thông.
Đặc thù của Việt Nam, như vậy, đã làm phát sinh một số rắc rối
cho chủ thể phát hành và nhà đầu tư.
Pha loãng cổ phiếu làm giảm giá trị quyền mua
Với quyền mua được cấu trúc rất khác quốc tế đó là giá trị nội tại
lớn, cấu phần giá trị thời gian của quyền mua không còn là một
lợi thế mà trở thành “nỗi lo” của các trái chủ. Nếu đối với quốc tế,
thời hạn chuyển đổi càng dài, mức biến động cổ phiếu càng lớn
(volatility) thì giá trị quyền mua càng tăng thì ở Việt Nam lại
ngược lại.
Thời hạn chuyển đổi dài sẽ làm cho giá cổ phiếu bị pha loãng do
doanh nghiệp “toàn quyền” tăng vốn liên tục, trong khi đó nguồn
cung vào thị trường ngày càng tăng mạnh làm giảm giá cổ phiếu.
Do đó giá trị nội tại của quyền mua cứ thế mà “teo” dần sau mỗi
quyết định tăng vốn pha loãng cổ phiếu của doanh nghiệp.
Việc pha loãng cổ phiếu trong thời gian lưu hành trái phiếu
chuyển đổi sẽ mang lại thiệt hại cho các trái chủ, đặc biệt những
người mua lại trái phiếu chuyển đổi sau khi phát hành mà không
thể tính được giá trị nội tại của quyền mua. Chúng ta chưa có luật
chống pha loãng cổ phiếu áp dụng cho các chủ thể phát hành trái
phiếu chuyển đổi nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các trái
chủ.
Kết luận
Do những đặc thù trái phiếu chuyển đổi tại Việt Nam, các nhà đầu
tư đang đối mặt với rất nhiều rủi ro. Các doanh nghiệp cần chủ
động tăng cường công khai minh bạch thông tin về các kế hoạch
tăng vốn ảnh hưởng đến trái phiếu chuyển đổi để họ có thể ra
các quyết định đầu tư phù hợp.
Chỉ có như thế, quyền lợi của nhà đầu tư mới được đảm bảo,
niềm tin của công chúng với doanh nghiệp mới liên tục được
củng cố và phát triển.
Các cơ quan chức năng cũng nên nghiên cứu việc bắt buộc định
mức tín nhiệm trái phiếu và quy định chống pha loãng cổ phiếu
trong quá trình lưu hành trái phiếu chuyển đổi hay quyền mua cổ
phiếu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- trai_phieu_chuyen_do1.pdf