Tần suất thiếu máu ở bệnh nhân suy tim mạn (STM) khá cao và là một
mục tiêu điều trị mới của dân số này. Bài tổng quan này tóm tắt những hiểu
biết hiện nay về tần suất, nguyên nhân, các tương quan sinh lý bệnh của
thiếu máu trong STM và những yếu tố nguy cơ cũng như lợi ích của việc
điều trị thiếu máu bằng các thưốc erythropoietin trong STM.
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1145 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tổng quan vế thiếu máu trong suy tim mạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan vế t hiếu máu trong
suy tim mạn
Tần suất thiếu máu ở bệnh nhân suy tim mạn (STM) khá cao và là một
mục tiêu điều trị mới của dân số này. Bài tổng quan này tóm tắt những hiểu
biết hiện nay về tần suất, nguyên nhân, các tương quan sinh lý bệnh của
thiếu máu trong STM và những yếu tố nguy cơ cũng như lợi ích của việc
điều trị thiếu máu bằng các thưốc erythropoietin trong STM.
Tần suất thiếu máu trong STM
Tần suất của thiếu máu ở bệnh nhân STM có phân suất tống máu thấp
thay đổi khá rộng từ 4-61% (trung bình 18%).1-15 Sự biến thiên này một
phần do việc sử dụng không đồng nhất các định nghĩa về thiếu máu của các
báo cáo. Định nghĩa thiếu máu của Tổ chức Y tế thế giới tính đến sự khác
biệt về giới trong sự phân bổ các giá trị hemoglobin (nồng độ hemoglobin <
13 g/dL ở nam và < 12 g/dL ở nữ),16 trái lại Hiệp hội Thận Quốc gia định
nghĩa thiếu máu khi hemoglobin £ 12 g/dL ở nam và nữ mãn kinh.17 Những
định nghĩa chuẩn về thiếu máu này không dựa trên những quy phạm về sinh
lý hay dân số đã được biết. Mặc dù không thống nhất về định nghĩa, nhưng
các nghiên cứu đều cho thấy tần suất của thiếu máu tăng ở những bệnh nhân
STM có bệnh thận đi kèm, tuổi cao, và có nhiều triệu chứng nặng hơn khi so
sánh với những người ít triệu chứng hơn. Một số báo cáo ghi nhận tần suất
thiếu máu cũng khá cao ở những bệnh nhân có phân suất tống máu bảo
tồn.18-20
Nguyên nhân thiếu máu trong STM
Thiếu máu xảy ra khi có sự thiếu hụt lượng hồng cầu mới được tạo ra
tương đối so với lượng hồng cầu già bị chết đi. Erythropoietin, một yếu tố
tăng trưởng glycoprotein 30,4-kDa tạo ra từ thận, là thành phần chính điều
hòa khối lượng hồng cầu và cung cấp oxygen cho mô.21-24 Erythropoietin
ngăn ngừa sự chết theo chương trình của các tế bào gốc dòng hồng cầu và do
đó kích thích sự tăng sinh, trưởng thành, và biệt hóa.23 Bất kỳ yếu tố nào
làm thận giảm bài tiết erythropoietin hoặc làm tủy xương giảm đáp ứng với
erythropoietin đều có thể gây thiếu máu.
Thiếu máu thiếu sắt hiện diện ở < 30% những bệnh nhân STM, nghĩa
là đa số bệnh nhân là thiếu máu đẳng bào, thường được xem là thiếu máu
của bệnh lý mạn tính. Các đặc tính lâm sàng kết hợp với tăng nguy cơ thiếu
máu ở dân số STM được liệt kê trong Bảng 1. Các yếu tố nguy cơ góp phần
vào thiếu máu ở bệnh nhân STM. Một số nguyên nhân quan trọng được tóm
tắt trong Hình 1.
Suy thận mạn thường đi kèm với STM và là yếu tố dự báo độc lập của
thiếu máu. Bệnh thận mạn mức độ trung bình đến nặng (GFR < 60 ml/phút)
không có suy tim, sự giảm sản xuất erythropoietin và hemoglobin có liên
quan với giảm độ lọc cầu thận. Khoảng 20-40% dân số này có thiếu
máu.4,9,26,27
Bảng 1. Các đặc tính lâm sàng kết hợp với tăng nguy cơ thiếu
máu
Tuổi cao
Giới nữ
Bệnh thận mạn (tăng creatinine huyết thanh hoặc giảm GFR)
Giảm chỉ số khối cơ thể
Dùng thuốc ức chế men chuyển
Phù chân
Một số nghiên cứu cũng cho thấy thiếu máu thường đi kèm với giảm
chỉ số khối cơ thể, gợi ý những bệnh nhân suy kiệt (cachexia) có nguy cơ bị
thiếu máu nhiều hơn. Nồng độ của các cytokines tiền viêm trong huyết thanh
tăng cao ở những bệnh nhận STM có suy kiệt góp phần gây thiếu máu. Các
cytokines tiền viêm bao gồm yếu tố hoại tử mô a (TNF-a), interleukin-1, và
interleukin-6 làm phá vỡ nhiều khâu trong quá trình tạo hồng cầu, như giảm
bài tiết erythropoietin từ thận, ức chế hoạt động của erythropoietin, và giảm
sinh khả dụng của dự trữ sắt cho quá trình tổng hợp hemoglobin.28-31 Các
cytokines tiền viêm cũng làm tăng nồng độ hepcidin, hormone peptide có
nguồn gốc từ gan.32-33 Hepcidin tương tác với ferroportin và các protein
vận chuyển sắt khác ở tế bào ruột để ức chế hấp thu sắt qua đường ruột qua
đó làm giảm cung cấp sắt cho sự tổng hợp hemoglobin.32-33 Trên chuột bị
suy tim do nhồi máu cơ tim, thiếu máu liên kết với sự hoạt hóa của con
đường tín hiệu TNF-a/Fas.34 Số lượng tế bào gốc tủy xương và khả năng
tăng sinh của các tế bào này giảm 40-50% ở chuột bị suy tim so với nhóm
chứng. Quá trình chết tế bào theo chương trình tăng 3 lần ở các tế bào gốc
của chuột suy tim có tương quan chặt với sự tăng hoạt động của TNF-a/Fas
ở tế bào T và các tế bào tiêu diệt tự nhiên ở tủy xương.34 Trên bệnh nhân
STM, nồng độ các cytokines tiền viêm gia tăng (TNF-a và các thụ thể TNF
tan trong nước) và các chất đánh dấu viêm khác trong máu (C-reactive
protein) tỷ lệ nghịch với nồng độ hemoglobin.35
Hệ renin-angiotensin đóng một vai trò không thể thiếu trong việc điều
hòa thể tích huyết tương và hồng cầu. Tăng tín hiệu angiotensin II ở thận sẽ
làm thay đổi áp lực oxygen quanh ống thận (peritubular oxygen tension),
một yếu tố điều hòa then chốt cho sự bài tiết erythropoietin.21,24 Giảm áp
lực oxygen ở các nguyên bào sợi quanh ống (peritubular fibroblasts) của vỏ
thận kết hợp với tăng tăng nồng độ các dạng oxygen phản ứng trong tế bào
dẫn đến tăng hoạt hóa HIF-1 (hypoxia inducible factor-1) và sự biểu hiện
gene erythropoietin.36
Angiotensin II làm tăng bài tiết erythropoietin do làm giảm lưu lượng
máu thận và tăng tái hấp thu ở ống thận gần.21 Angiotensin II cũng kích
thích trực tiếp lên các tế bào gốc của hồng cầu ở tủy xương.37 Nồng độ
erythropoietin tăng vừa phải ở bệnh nhân STM tương ứng với mức độ hoạt
hóa của hệ renin-angiotensin.38 Ức chế hệ renin-angiotensin bằng ức chế
men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin làm giảm sản xuất
erythropoietin và giảm nồng độ hemoglobin.12,39,40 Ức chế men chuyển
cũng làm xúc tác cho quá trình phá vỡ của Ac-SDKP, chất ức chế quá trình
sinh hồng cầu. Ở những bệnh nhân STM có thiếu máu được điều trị bằng ức
chế men chuyển có hoạt động của men chuyển trong huyết thanh thấp, nồng
độ Ac-SDKP tăng so với những người STM không thiếu máu.41 Huyết
thanh lấy từ những bệnh nhân thiếu máu STM có nồng độ Ac-SDKP cao gây
ức chế sự hình thành các nguyên hồng cầu khi cấy so với huyết thanh của
những người STM không thiếu máu hay nhóm chứng khỏe mạnh. Tác động
của ức chế men chuyển lên hematocrit thì phức tạp khi ức chế men chuyển
có thể làm giảm sản xuất hồng cầu và cũng làm giảm thể tích huyết tương
(xem phần thảo luận về pha loãng máu ở dưới). Trong các thử nghiệm lâm
sàng, khi ức chế he renin-angiotensin thường kết hợp với giảm nhẹ
hemoglobin có ý nghĩa thống kê.12,40,42
Thiếu máu thường đi kèm với các triệu chứng cơ năng và thực thể của
sung huyết, gợi ý tăng thể tích huyết tương có thể góp phần vào thiếu máu
trong STM do quá trình pha loãng máu. Trong số 37 bệnh nhân STM thiếu
máu không phù, một kỹ thuật đánh dấu albumin bằng đồng vị phóng xạ để
đo trực tiếp thể tích huyết tương cho thấy 46% bệnh nhân hematocrit thấp có
thể tích hồng cầu bình thường, như vậy có thể quy cho thiếu máu làm tăng
thể tích huyết tương và hậu quả là pha loãng máu.3 Bệnh nhân bị pha loãng
máu có lâm sàng tương tự như những người có thể tích hồng cầu giảm
nhưng có nguy cơ tử vong cao hơn trong quá trình theo dõi. Việc sử dụng
erythropoietin nhằm làm tăng khối lượng hồng cầu ở bệnh nhân pha loãng
máu có thể làm tăng nhiều hơn thể tích máu toàn bộ cùng với những hậu quả
lâm sàng xấu hơn. Điều trị tích cực bằng lợi tiểu có thể làm giảm thể tích
huyết tương và điều chỉnh hiệu quả hơn thiếu máu ở những bệnh nhân có
pha loãng máu.
Các hậu quả sinh lý bệnh của thiếu máu
Khi không có bệnh tim thực thể, nồng độ hemoglobin giảm nặng (4-5
g/dL) kết hợp với giữ muối nước, giảm lưu lượng máu thận và độ lọc cầu
thận, và bằng chứng của hoạt hóa thần kinh thể dịch.43 Những đáp ứng tim-
thận này có thể do ảnh hưởng của thiếu máu nặng trên độ nhớt máu, áp lực
oxygen ở giường mao mạch, và hiệu lực của nitric oxide.44,45
Mức độ thiếu máu nhẹ hơn có thể góp phần vào sự hoạt hóa thần kinh
thể dịch và tiến triển của bệnh trong STM.46 Ở những bệnh nhân có hội
chứng b-thalassemia, suy tim là một biến chứng thường gặp qua trung gian
của các tác động huyết động học và thần kinh thể dịch của thiếu máu mạn
nặng và quá tải sắt thứ phát sau truyền sắt lâu ngày.47 Điều trị sắt tích cực
làm giảm đáng kể nhưng không loại bỏ được nguy cơ suy tim ở những bệnh
nhân này.
Nồng độ hemoglobin trong máu là một yếu tố quyết định quan trọng
sự cung cấp oxygen cho co xương vận động. Bệnh nhân STM thiếu dự trữ
sinh lý để bù trừ sự giảm hemoglobin và có biểu hiện giảm khả năng hoạt
động gắng sức.48 Một số nhà nghiên cứu đã báo cáo sự kết hợp giữa giảm
hemoglobin với giảm chức năng nhiều theo phân loại NYHA.3,15,49 Kalra
và cộng sự50 đã chứng minh mối quan hệ tuyến tính giữa giảm hemoglobin
với mức tiêu thụ oxygen đỉnh ở những bệnh nhân thiếu máu STM có
hemoglobin < 13 g/dL.
Khối cơ tim tăng 25% ở chuột bị thiếu máu mạn.51 Một tỷ lệ nghịch
giữa giá trị hemoglobin hay hematocrit với phì đại thất trái cũng được mô tả
trong các nghiên cứu lâm sàng ở những bệnh nhân phải lọc thận định kỳ
hoặc bệnh thận mạn trước giai đoạn lọc thận.52 Trong một phân nhóm bệnh
nhân STM trong thử nghiệm RENAISSANCE (the Randomized Etanercept
North American Strategy to Study Antagonism of Cytokines) với dữ liệu
MRI tim, tăng 1 g/dL hemoglobin kết hợp với giảm 4,1 g/m2 khối cơ thất
trái sau 24 tuần.49 Kết quả này độc lập với nghiên cứu điều trị thuốc và
không cung cấp bằng chứng quan hệ nhân quả giữa những thay đổi của
hemoglobin với những thay đổi về khối cơ thất trái. Trong hai thử nghiệm
ngẫu nhiên trên những bệnh nhân bệnh thận mạn, hemoglobin gia tăng với
điểu trị erythropoietin nhưng không kết hợp với giảm phì đại thất trái.53-54
Thiếu máu và dự hậu lâm sàng
Giảm hemoglobin trong STM được chứng minh làm tăng nguy cơ
nhập viện và tử vong do mọi nguyên nhân.2-6,8,9,11-13,15,19,42,49 Các kết
quả này gợi ý một sự liên quan tuyến tính giữa giảm hemoglobin và tăng
nguy cơ tử vong. Trong các nghiên cứu phân tích hemoglobin như là một
biến liên tục, giảm 1 g/dL hemoglobin kết hợp độc lập với tăng có ý nghĩa
nguy cơ tử vong (Hình 2). Những cơ chế tiềm tàng liên kết thiếu máu với
tăng nguy cơ tử vong trong STM chưa được mô tả nhưng có thể liên quan
đến những biến đổi về tình trạng chịu tải của thất và cấu trúc tim, sự hoạt
hóa thần kinh thể dịch, hay giảm khả năng dọn dẹp các gốc tự do. Thiếu máu
cũng có thể là một dấu chứng của bệnh cơ tim căn bản nặng hơn.
Hình 2. Ước lượng tỉ số rủi ro (KTC 95%) cho tử vong do mọi
nguyên nhân kết hợp với giảm 1 g/dL hemoglobin. Ước lượng theo mô hình
rủi ro tỉ lệ Cox có điều chỉnh các biến không đồng nhất. Các nghiên cứu của
Al-Ahmad, Kosiborod và Mozaffarian ước lượng tỉ số rủi ro từ dữ liệu được
công bố cho rằng giảm 1 g/dL hemoglobin tương đương với giảm 3%
hematocrit. Phân tích của Mozaffarian bao gồm những bệnh nhân có
hematocrit ≤ 37,5%. Anand và cộng sự không báo cáo khoảng tin cậy cho
ước lượng nguy cơ. Maggione và cộng sự ước lượng nguy cơ từ 2 dân số
nghiên cứu trong đăng bộ IN-CHF và thử nghiệm lâm sàng Val-HeFT.
Các tiếp cận điều trị
Truyền máu cho những bệnh nhân bệnh tim mạch có thiếu máu còn
tranh cãi. Theo hướng dẫn của Hội Thầy thuốc Hoa Kỳ (American College
of Physicians) và Hội Gây mê Hoa Kỳ (American Society of
Anesthesiology), "ngưỡng truyền máu" cho những bệnh nhân không có yếu
tố nguy cơ tim mạch là hemoglobin từ 6-8 g/dL.55 Trong 78 974 bệnh nhân
lớn tuổi nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp, truyền máu kết hợp với tỉ lệ tử
vong 30 ngày thấp hơn có ý nghĩa ở những người có hematocrit ≤ 30% lúc
nhập viện.56 Trong 838 bệnh nhân nặng (26% bệnh tim mạch), duy trì
hemoglobin 10-12 g/dL không mang lại thêm lợi ích nào trên tử vong 30
ngày so với duy trì hemoglobin 7-9 g/dL.57 Truyền máu có thể đi kèm với
những tai biến phụ khác bao gồm ức chế miễn dịch làm tăng nguy cơ nhiễm
trùng, dễ nhạy cảm với kháng nguyên HLA, và quá tải sắt.58,59 Với những
dữ liệu về nguy cơ và lợi ích này, truyền máu được xem xét như là điều trị
cấp cho thiếu máu nặng tùy từng trường hợp nhưng có lẽ không phải là một
chiến lược điều trị sống còn trong điều trị dài hạn thiếu máu mạn ở bệnh
nhân STM.
Mặc dù nồng độ erythropoietin tăng vừa phải trong STM, nhưng mức
tăng này thấp hơn so với các dân số thiếu máu khác.27,38,60 Theo đó, thiếu
máu trong STM có thể đáp ứng với bổ sung erythropoietin ngoại sinh. Cơ
chế chính trong đó erythropoietin kích thích tạo hồng cầu là ức chế quá trình
chết theo chương trình của các tế bào gốc hồng cầu tại tủy xương.23 Thụ thể
erythropoietin là một thành viên của dòng họ thụ thể cytokine nhóm I.61 Sự
gắn kết của erythropoietin với thụ thể sẽ hoạt hóa các đường truyền tín hiệu
chống chết tế bào theo chương trình.23,62 Các tế bào gốc hồng cầu ở tủy
xương thoát khỏi quá trình chết theo chương trình sẽ tăng sinh dẫn đến sự
trưởng thành và phát triển của các tiền nguyên hồng cầu và nguyên hồng
cầu. Tiếp đến, sự tăng sinh tế bào lưới xảy ra và nồng độ hemoglobin gia
tăng.
Có 3 thuốc erythropoietin được dùng trong điều trị thiếu máu:
epoetin-a, epoetin-b (cả hai đều là erythropoietin người tái tổ hợp [rHuEpo]),
và darbepoetin-a.31 rHuEpo được tổng hợp đầu tiên vào năm 1985, 2 năm
sau gene erythropoietin được nhân bản, và được Cục Quản lý Thuốc và
Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp phép sử dụng trên lâm sàng trong điều trị
thiếu máu ở bệnh thận mạn giai đoạn cuối vào năm 1998.63 Các nghiên cứu
trước đó trên những bệnh nhân bệnh thận mạn lọc thận định kỳ cho thấy
tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm dưới da 150-200 UI/kg mỗi tuần (trong 1 hoặc
chia làm 3 liều)làm tăng nồng độ hemoglobin lên 10-12 g/dL trong 83-90%
bệnh nhân thiếu máu có bệnh thận mạn.64 Thời gian bán hủy trong huyết
tương của rHuEpo sau khi tiêm tĩnh mạch từ 6-8 giờ. Khoảng 25% liều dùng
được hấp thu sau khi tiêm dưới da, nhưng thời gian bán hủy huyết tương lên
đến > 24 giờ.65 Số lượng rHuEpo tiêm dưới da cần để đạt hemoglobin mục
tiêu ở những bệnh nhân bệnh thận mạn ít hơn 25% liều cần dùng khi tiêm
tĩnh mạch.65 Darbepoetin-a là một đồng phân liên kết N, tác dụng kéo dài
của erythropoietin người được FDA chấp thuận cho điều trị thiếu máu ở
bệnh thận mạn năm 2001.30 So với hai erythropoietin tự nhiên và tái tổ hợp,
nó có ái lực mạnh hơn với thụ thể erythropoietin và thời gian bán hủy huyết
tương gần 48 giờ, do đó khoảng cách liều điều trị duy trì sẽ dài hơn từ 1-2
tuần.66,67
Hiệu quả điều trị của rHuEpo trên bệnh nhân thiếu máu STM được
báo cáo đầu tiên bởi Silverberg và cộng sự.1 Trong một thiết kế nghiên cứu
mở, 26 bệnh nhân STM thiếu máu (NYHA III-IV và hemoglobin < 12 g/dL)
được tiêm dưới da rHuEpo (liều trung bình 5277 UI/tuần) và sucrose sắt
tiêm tĩnh mạch (liều trung bình 185 mg/tháng) và theo dõi trong thời gian 4-
15 tháng (trung bình 7 tháng). Điều trị rHuEpo làm tăng hemoglobin trung
bình từ 10,2-12,1 g/dL và đi cùng với cải thiện phân độ chức năng NYHA
(3,7±0,5 ở thời điểm ban đầu xuống 2,7±0,7, P < 0,05), tăng phân suất tống
máu thất trái (28±5% ở thời điểm ban đầu lên 35±8%, P < 0,001), và giảm
nhu cầu dùng furosemide uống cũng như tiêm tĩnh mạch.1 Các tác giả này
sau đó tiếp tục báo cáo một thử nghiệm mở ngẫu nhiên trong thời gian theo
dõi trung bình 8 tháng so sánh hiệu quả của điều chỉnh một phần thiếu máu
bằng rHuEpo tiêm dưới da và sucrose tiêm tĩnh mạch với điều trị thông
thường trên 32 bệnh nhân STM nặng có thiếu máu (NYHA III-IV và
hemoglobin < 11,5 g/dL).68 Kết quả điều trị bằng rHuEpo (tiêm dưới da
4000 UI 1-3 lần/tuần cộng với tiêm tĩnh mạch sucrose sắt 200 mg mỗi 2
tuần) làm tăng đáng kể nồng độ hemoglobin (10,3-12,9 g/dL so với 10,9-
10,8 g/dL, P < 0,0001), cải thiện phân độ NYHA (rHuEpo 3,8±0,4 g 2,2±0,7
so với điều trị thông thường 3,5±0,7 g 3,9±0,3, P < 0,0001), và số ngày nằm
viện (rHuEpo 13,8±7,2 g 2,9±6,6 ngày so với điều trị thông thường 9,9±4,8
15,5±9,8 ngày, P < 0,0001).68 Mancini và cộng sự70 tiến hành một thử
nghiệm mù đơn, ngẫu nhiên, so sánh với giả dược của điều trị rHuEpo trên
26 bệnhnhân STM tiến triển có thiếu máu (hematocrit < 35%). Bệnh nhân
được tiêm dưới da 5000 UI rHuEpo 3 lần/tuần và được điều chỉnh để nâng
hematocrit lên > 45% sau 3 tháng hoặc tiêm dưới da 1 mũi nước muối sinh
lý. Sắt và folate cũng được bổ sung bằng đường uống ở những bệnh nhân
dùng rHuEpo. So sánh với nhóm giả dược, nhóm điều trị rHuEpo làm tăng
có ý nghĩa hemoglobin (11,0±0,5 g 14,3±1,0 g/dL, P < 0,05), đỉnh hấp thu
oxygen (11,0±1,8 g 12,7±2,8 mL/phút/kg, P < 0,05), thời gian gắng sức
bằng thảm lăn (590±107 g 657119 giây, P < 0,004). Sự tăng nồng độ
hemoglobin liên quan tuyết tính với tăng đỉnh hấp thu oxygen (r = 0,53; P <
0,02).70 Những bệnh nhân có thiếu máu do pha loãng lẫn thiếu máu thực sự
với thể tích hồng cầu giảm dường như đều cải thiện khả năng gắng sức khi
điều trị với rHuEpo. Trong phân nhóm pha loãng máu với tăng thể tích huyết
tương, hematocrit tăng đáp ứng với rHuEpo là do giảm thể tích huyết tương.
Khi mà liều lợi tiểu không thay đổi trong suốt nghiên cứu, các kết quả này
gợi ý erythropoietin có tác dụng trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự điều hòa thể
tích huyết tương của thận.
Những tính chất về dược lực và dược động học của darbepoetin-a
được so sánh trên 33 bệnh nhân STM có thiếu máu (hemoglobin ≤ 12,5
g/dL) so với 30 người khỏe mạnh.71 Darbepoetin-a được dùng mỗi tháng 1
lần với liều 20 mg/kg hay cao hơn làm tăng kéo dài nồng độ hemoglobin ở
bệnh nhân STM thiếu máu mà không gây tác dụng phụ nặng nề nào.71 Hiệu
quả của điều trị bằng darbepoetin-a (0,7 mg/kg tiếm dưới da mỗi 2 tuần
trong 26 tuần) trên khả năng dung nạp với gắng sức được đánh giá trong một
thử nghiệm ngẫu nhiên có so sánh với giả dược trên 41 bệnh nhân STM
thiếu máu (hemoglobin 9-12 g/dL).72 Kết quả cho thấy tác dụng có lợi của
darbepoetin-a trên thời gian gắng sức và chất lượng cuộc sống khi so sánh
với giả dược.72 Một thử nghiệm khác lớn hơn STAMINA HeFT (Studies of
Anemia in Heart Failure Trial) thực hiện trên 300 bệnh nhân STM thiếu máu
nhằm xác định có cải thiện khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống hay
không đã hoàn tất quá trình lấy mẫu nhưng kết quả chưa được công bố.73
Những nguy cơ tiềm tàng khi điều trị bằng erythropoietin
Điều trị bằng erythropoietin làm tăng nguy cơ tạo huyết khối. Nguy
cơ này một phần do tác dụng từ sự tăng nồng độ hemoglobin, tăng độ nhớt
máu hay sự tương tác tiểu cầu-hồng cầu hoặc do tác động trực tiếp của
erythropoietin lên tiểu cầu hay các tế bào nội mạc.74-76 Các nghiên cứu về
tỉ lệ huyết khối do điều trị bằng rHuEpo ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn
cuối có thiếu máu lọc thận định kỳ cho những kết quả khác nhau.77-
79 Trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên lớn nhất tính đến thời điểm hiện
tại, Besarab và cộng sự77 so sánh hiệu quả của rHuEpo trên mục tiêu
hematocrit thấp 30% với mục tiêu hemoglobin bình thường 42% trên 1233
bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối phải lọc thận có bệnh tim mạch đi kèm.
Nghiên cứu này đã phải kết thúc sớm do xu hướng tăng nguy cơ tử vong
hoặc nhồi máu cơ tim không tử vong ở nhóm mục tiêu hematocrit 30% (RR
= 1,3; 95% CI; 0,9-1,9). Cơ chế chưa rõ, trong mỗi nhóm điều trị giá trị
hemoglobin cao hơn thì nguy cơ thấp hơn.
Trong một nghiên cứu hồi cứu trên những bệnh nhân thiếu máu bị ung
thư cổ tử cung, điều trị rHuEpo mạn kết hợp với tăng nguy cơ huyết khối
tĩnh mạch sâu độc lập với hematocrit.80
Điều trị rHuEpo cũng kết hợp với tăng nguy cơ tử vong do mọi
nguyên nhân trong hai thử nghiệm ngẫu nhiên có so sánh với giả dược ở
những bệnh nhân ung thư vú và ung thư vùng đầu cổ.81,82 Các tai biến
huyết khối không phải là nguyên nhân gây tử vong thường gặp trong các
nghiên cứu này. Mặc dù các kết quả trên bệnh thận mạn và dân số bị ung thư
có thể không đúng trực tiếp cho những bệnh nhân STM nhưng nó gợi ý cần
có những thử nghiệm khác để xác định hiệu quả và độ an toàn dài hạn của
các thuốc erythropoietin trên dân số STM.
Trong thử nghiệm lâm sàng nhỏ trên bệnh nhân thiếu máu STM được
tóm tắt ở trên, không có tai biến huyết khối hay tác dụng phụ khác nào của
erythropoietin trên gần 300 bệnh nhân.1,68-70,72 Việc dùng các thuốc
chống kết tập tiểu cầu và kháng đông ở bệnh nhân STM có thể làm nhẹ đi
tác dụng tiền đông của các thuốc erythropoietin.
Dùng rHuEpo dài ngày thường kết hợp với tăng huyết áp.83,84 Các
cơ chế có thể bao gồm tăng khối lượng hồng cầu làm tăng độ nhớt máu, thay
đổi môi trường thần kinh thể dịch, và tác dụng trực tiếp trên cấu trúc và chức
năng vi mạch.84,85 Ở những bệnh nhân bệnh thận mạn, các yếu tố nguy cơ
của tăng huyết áp gồm tăng nhanh hematocrit trong quá trình điều trị,
hematocrit ban đầu thấp, dùng rHuEpo tiêm mạch liều cao và yếu tố di
truyền liên quan đến tăng huyết áp.85
Các tác dụng phụ đáng kể khác của rHuEpo được báo cáo gồm co giật
và ngừng tạo hồng cầu do hình thành kháng thể chống lại erythropoietin.
Vai trò của bổ sung sắt
Mặc dù thiếu sắt chỉ rõ ràng trong thiểu số bệnh nhân STM, thiếu sắt
chức năng, đặc trưng bởi giảm khả năng dự trữ sắt của ở mô để cung cấp cho
quá trình tạo hồng cầu, có thể là vấn đề thường gặp trong STM.86 Một số
nghiên cứu nhỏ có giá trị trên bệnh nhân thiếu máu STM cho thấy
hemoglobin tăng đáng kể với điều trị bằng rHuEpo tiêm tĩnh mạch và bổ
sung sắt đường uống.69,70 Hướng dẫn hiện tại của Hiệp hội Thận Quốc gia
khuyến cáo dùng sắt đường tĩnh mạch để duy trì nồng độ ferritin huyết thanh
từ 100-800 ng/mL và độ bão hòa transferrin 20-50% nhằm tối ưu hóa đáp
ứng lâm sàng với các thuốc erythropoietin.17 Mặc dù dạng trình bày
sucrose sắt và gluconate sắt tĩnh mạch không gây phản ứng phản vệ và
thường được dung nạp tốt ở dân số bệnh thận mạn, vẫn cần lưu ý về sự quá
tải sắt kết hợp với tăng nguy cơ nhiễm trùng và tai biến tim
mạch.17,87,88 Cần xác định thêm về hiệu quả và độ an toàn của bổ sung sắt
bằng đường tĩnh mạch trên những bệnh nhân thiếu máu STM có thiếu sắt
chức năng.
Khuyến cáo cho thực hành hiện nay
Những hướng dẫn lâm sàng về STM gần đây ít thảo luận về việc đánh
giá và chọn lựa điều trị thiếu máu.89,90 Với cơ sở dữ liệu đã có, cần khuyến
cáo đo nồng độ hemoglobin đối với những bệnh nhân STM mỗi sáu tháng
một lần nhằm phát hiện thiếu máu vì những lợi ích có thể có nếu được đánh
giá và điều trị đúng mức. Việc đánh giá bao gồm đo lường sắt, các chất dinh
dưỡng khác và tính độ lọc cầu thận. Đối với những người có thiếu máu trung
bình - nặng (hemoglobin < 11 g/dL) và bệnh thận mạn trung bình - nặng đi
kèm (GFR ≤ 60 mL/phút), hướng dẫn hiện nay của Hiệp hội Thận Quốc gia
khuyến cáo điều trị bằng erythropoietin và bổ sung sắt để đạt hemoglobin
mục tiêu 12 g/dL.17,27 Mục tiêu tiên phát của điều trị là cải thiện chất lượng
cuộc sống. Do thiếu những bằng chứng và dữ liệu về dự hậu dài hạn và sự lo
lắng về tỉ lệ tử vong tăng ở những dân số thiếu máu khác, không khuyến cáo
dùng erythropoietin cho những bệnh nhân STM thiếu máu nhẹ và có chức
năng thận bảo tồn.91
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_6.pdf