Tóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam

Như Website Chính phủ đã đưa tin, ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại toàn cầu (WTO), kết thúc chặng đường 11 năm với hơn 200 cuộc đàm phán song phương và đa phương đầy khó khăn, phức tạp. Để trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận lộ trình thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh.

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt cơ bản về cam kết gia nhập WTO của Việt Nam (Website Chính phủ) - Như Website Chính phủ đã đưa tin, ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại toàn cầu (WTO), kết thúc chặng đường 11 năm với hơn 200 cuộc đàm phán song phương và đa phương đầy khó khăn, phức tạp. Để trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định và các quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, nên Việt Nam yêu cầu và được WTO chấp nhận lộ trình thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh... Về cam kết đa phương Kết quả mà Việt Nam đàm phán được là trong khoảng thời gian 12 năm (không muộn hơn 31/12/2018) WTO chấp nhận coi Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với Việt Nam. Chế độ "phi thị trường" này chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, dù Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi Việt Nam vào WTO. Riêng trường hợp Việt Nam vi phạm quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì sẽ được xem xét, xử lý theo quy định của WTO. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành dệt may. Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm, nhìn chung Việt Nam duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, Việt Nam còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông (như hỗ trợ thủy lợi) là trợ cấp "xanh", được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của  Việt Nam trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí... Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho Việt Nam thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là: đối với rượu trên 20 độ cồn, Việt Nam hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm; đối với bia, Việt Nam sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm. Về doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp thương mại Nhà nước, cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác. Việt Nam cũng đồng ý không coi mua sắm của doanh nghiệp Nhà nước là mua sắm Chính phủ. Tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại doanh nghiệp: Điều 52 và 104 của Luật doanh nghiệp quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công ty TNHH và công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại diện ít nhất làng 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, Việt Nam đã xử lý theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề này trong điều lệ công ty. Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Tuy nhiên, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng các biện pháp như quy định độ tuổi người sử dụng và đưa ra chế độ cấp bằng lái đặc biệt. Với thuốc lá điếu và xì gà, Việt Nam đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà Việt Nam đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ, Việt Nam cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm nhưng bảo lưu quyền áp dụng thuế nhập khẩu cao và nhiều biện pháp quản lý kỹ thuật chặt chẽ khác. Về yêu cầu minh bạch hóa, Việt Nam cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí hoặc Website Chính phủ, website của các Bộ, ngành. Về thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. Việt Nam còn đàm phán một số vấn đề đa phương khác như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp trong cơ quan Chính phủ, định giá tính thuế nhập khẩu, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại... Với các nội dung này, Việt Nam cam kết tuân thủ các quy định của WTO kể từ khi gia nhập. Cam kết về thuế nhập khẩu Về mức cam kết chung, Việt Nam đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4%, thực hiện dần trong vòng 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong 5 năm. Với hàng công nghiệp, mức bình quân giảm từ 16,8% xuống còn 12,6%, thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. Đối với mức cam kết cụ thể, sẽ có khoảng hơn 1/3 số dòng của biểu thuế phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô - xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất, phương tiện vận tải. Việt Nam cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do hoá theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Việt Nam cũng tham gia một số phần với thời gian thực hiện sau từ 3 – 5 năm đối với các ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt hàng này, mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN (nguyên tắc tối huệ quốc của WTO), cụ thể trứng 40%, đường thô 25%, đường tinh 40-50%, thuốc lá lá 30%, muối ăn 30%. Mức thuế ngoài hạn ngạch cao hơn rất nhiều. Cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ Về diện cam kết, trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA), Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa thuận gia nhập WTO, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110. Về mức độ cam kết, thỏa thuận WTO đi xa hơn BTA nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch... Việt Nam giữ được mức độ cam kết gần như BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để kết thúc đàm phán, Việt Nam có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. Nội dung cam kết của một số lĩnh vực chủ chốt như sau: Đối với cam kết chung cho các ngành dịch vụ, về cơ bản như BTA. Trước hết, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được Việt Nam cho phép trong từng ngành cụ thể (những ngành như vậy không nhiều). Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Việt Nam cũng cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng với tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng, Việt Nam chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần. Về dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí, Việt Nam đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn giữ quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định công ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Việt Nam cũng bảo lưu được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ... Đặc biệt, tất cả các công ty vào Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Về dịch vụ viễn thông, Việt Nam cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng của các doanh nghiệp do Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy việc giữ lại các hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng (chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới được đầu tư vào hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% trong các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có gắn với hạ tầng mạng và cũng chỉ được liên doanh với các đối tác Việt Nam đã được cấp phép). Đối với dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt so với các nước mới gia nhập. Trước hết, thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA, Việt Nam không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón... Việt Nam chỉ mở cửa thị trường sau 3 năm. Việt Nam hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được Việt Nam cho phép theo từng trường hợp cụ thể). Đối với dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang với BTA. Tuy nhiên, Việt Nam đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi gia nhập. Về dịch vụ ngân hàng, Việt Nam đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra, tương tự như BTA, ngân hàng nước ngoài được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó sẽ không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam (không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng. Về dịch vụ chứng khoán, Hoà Kỳ được phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối với các cam kết khác với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải..., mức độ cam kết về cơ bản không khác so với BTA. Ngoài ra, Việt Nam cũng không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản. Diễn giải mức thuế bình quân cam kết Bình quân chung và theo ngành Thuế suất MFN hiện hành (%) Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%) Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%) Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%) Cam kết WTO của Trung Quốc (%) Mức cắt giảm thuế tại Vòng Uruguay Nước phát triển Nước đang phát triển Nông sản 23,5 25,2 21,0 10,6 16,7 giảm 40% giảm 30% Hàng công nghiệp 16,6 16,1 12,6 23,9 9,6 giảm 37% giảm 24% Chung toàn biểu 17,4 17,2 13,4 23,0 10,1 Nguồn: Bộ Tài chính Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong vòng đàm phán gia nhập WTO đối với một số nhóm hàng quan trọng TT Ngành hàng/ Mức thuế suất Thuế suất MFN Cam kết với WTO Thuế suất khi gia nhập Thuế suất cuối cùng Thời gian thực hiện 1. Một số sản phẩm nông nghiệp - Thịt bò 20 20 14 5 năm - Thịt lợn 30 30 15 5 năm - Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm - Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm - Thịt chế biến 50 40 22 5 năm - Bánh kẹo (thuế suất bình quân) 39,3 34,4 25,3 3-5 năm - Bia 80 65 35 5 năm - Rượu 65 65 45-50 5-6 năm - Thuốc lá điếu 100 150 135 3 năm - Xì gà 100 150 100 5 năm Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm 2. Một số sản phẩm công nghiệp - Xăng dầu 0-10 38,7 38,7 - Sắt thép (thuế suất bình quân) 7,5 17,7 13 5-7 năm - Xi măng 40 40 32 4 năm - Phân hóa học (thuế suất bình quân) 0,7 6,5 6,4 2 năm - Giấy (thuế suất bình quân) 22,3 29,7 15,1 5 năm - Tivi 50 40 25 5 năm - Điều hòa 50 40 25 3 năm - Máy giặt 40 38 25 4 năm - Dệt may (thuế suất bình quân) 37,3 13,7 13,7 ngay khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ) - Giày dép 50 40 30 5 năm - Xe ôtô con + Xe từ 2.500 cc trở lên, chạy xăng 90 90 52 12 năm + Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cầu 90 90 47 10 năm + Xe dưới 2.500 cc, và loại khác 90 100 70 7 năm - Xe tải + Loại không quá 5 tấn 100 80 50 10 năm + Loại thuế suất khác hiện hành 80% 80 100 70 7 năm + Loại thuế suất khác hiện hành 60% 60 60 50 5 năm + Phụ tùng ôtô 20,9 24,3 20,5 3-5 năm - Xe máy + Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 8 năm + Loại khác 100 95 70 7 năm Nguồn: Bộ Tài chính GIA NHẬP WTO : NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM CƠ HỘI 1. Tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam được đối xử bình đẳng: Việc gia nhập WTO về tổng thể đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là phần không thể tách rời của chủ trương hội nhập kinh tế thế giới và sử dụng ngày càng hiệu quả tất cả các ưu thế của phân công lao động quốc tế. Bước tiến quan trọng nhất trong lịch sử 50 năm của hệ thống thương mại đa phương là việc thành lập WTO và tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại có hiệu quả, đặc biệt là đối với các nước nhỏ. Các luật lệ rõ ràng và thực chất của WTO bảo đảm sự tăng trưởng ổn định, quan hệ thương mại minh bạch và dự đoán được trước, thúc đẩy luân chuyển hàng hoá và đầu tư, tạo ra sự bảo vệ có hiệu quả hơn lợi ích của các quốc gia nhỏ và có nền kinh tế yếu. Sau khi gia nhập WTO, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử (MFN và NT) trên thị trường của các nước thành viên WTO, hàng hoá và dịch vụ Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng như hàng hoá và dịch vụ của tất cả các thành viên khác. Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường vị thế quốc tế và bảo vệ quyền lợi của mình trong việc tham gia xây dựng những quy định, luật lệ của WTO công bằng và phù hợp với các nước đang phát triển, đấu tranh chống sự áp đặt những ngoại lệ không thuộc phạm vi thương mại về xã hội, lao động, môi trường.... Trong giải quyết tranh chấp với các cường quốc thương mại, Việt Nam sẽ được bảo vệ tốt hơn nhờ hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO. Việc gia nhập WTO sẽ góp phần xoá bỏ những tàn tích của thời kỳ chiến tranh lạnh thể hiện bằng các biện pháp phân biệt đối xử, những quy định gắn với cái gọi là "các vấn đề chính trị, nhân quyền..." trong luật pháp một số nước thành viên WTO.  2. Giải quyết vấn đề thị trường tòan cầu cho hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam Với việc thành lập WTO, các nước đã cam kết giảm thuế quan đối với hàng nông sản - 36%, hàng công nghiệp - 33%, dệt may - 32%. Nhờ vậy, kim ngạch mậu dịch toàn cầu đã tăng khoảng 200 tỷ USD/năm. Trong khuôn khổ WTO, từ 1 tháng Giêng năm 2005 sẽ bỏ tòan bộ hạn ngạch đối với nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên WTO. Theo thỏa thuận khung ngày 1 tháng 8 năm 2004, các thành viên WTO đã nhất trí về nguyên tắc tự do hóa hơn nữa thương mại làm cơ sở để tiếp tục vòng đàm phán Doha. Đặc biệt đối với nông nghiệp đã cam kết tiến tới xóa bỏ các khỏan trợ cấp trong nước, trong đó xóa bỏ 20% trợ cấp trong nước ngay khi kết thúc vòng Doha; nhất trí xóa bỏ mọi hình thức trợ cấp xuất khẩu; thống nhất là các nước có mức độ trợ cấp cao hơn thì phải cắt giảm trợ cấp nhiều hơn... Như vậy, việc gia nhập WTO mở ra khả năng sử dụng quá trình tự do hoá thương mại thế giới và toàn cầu hoá sản xuất để đạt được các mục tiêu kinh tế nhất định. Các cam kết mở cửa thị trường mà các nước thành viên WTO chấp nhận ở mức độ cao sẽ tạo cơ hội rất lớn cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Các doanh nghiệp sẽ có được điều kiện thuận lợi hơn trong việc phát triển và mở rộng khả năng xuất khẩu cũng như thâm nhập thị trường mới trên phạm vi tòan cầu, đặc biệt trong lĩnh vực nông sản và dệt may. Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng sẽ được hưởng một số ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển trong thời kỳ chuyển đổi cũng như trong việc thực hiện các nghĩa vụ của WTO. 3. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài Sau khi gia nhập WTO, với hai nguyên tắc minh bạch hoá và tính dễ dự đóan trước, các chính sách của Chính phủ sẽ đảm bảo việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi và hấp dẫn hơn: như dành sự đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngòai, không đòi hỏi tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc hay tỷ lệ nội địa hóa, bãi bỏ một số hạn chế đối với đầu tư nước ngòai, bỏ bớt những lĩnh vực độc quyền nhà nước hay độc quyền doanh nghiệp... Cùng với việc hội nhập vào hệ thống thương mại tòan cầu, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi vào Việt Nam vì đã có thị trường tiêu thụ tòan cầu rộng lớn. Các nhà đầu tư Việt Nam cũng có nhiều cơ hội để đầu tư trong nước cũng như ra nước ngòai. 4. Tiếp thu khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo Gia nhập WTO sẽ là một bước tiến lớn trong quá trình hội nhập của nước ta vào nền kinh tế thế giới. Đây sẽ là cơ hội để tiếp cận những thành quả khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới cũng như những kinh nghiệm quản lý hiện đại. Nguồn nhân lực của đất nước cũng sẽ có điều kiện được nâng cao trình độ, kỷ luật, hiệu quả và năng suất... THÁCH THỨC 1. Nghiên cứu để nắm vững quy định của WTO: WTO có 16 hiệp định chính và các quy định với tổng số tài liệu dài 30.000 trang. Để có thể hiểu thấu đáo và thực hiện đúng các quy định của WTO đồng thời vận dụng có lợi nhất cho Việt Nam, việc nghiên cứu để nắm vững các quy định của WTO là thách thức đầu tiên và có vai trò hết sức quyết định, đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn của các doanh nghiệp. Các Hiệp định chính của WTO là: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994 Hiệp định về Nông nghiệp Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật Hiệp định về Thương mại hàng Dệt và May mặc (kết thúc vào 1 tháng 1 năm 2005) Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại Hiệp định về biện pháp đầu tư liên quan đến Thương mại Hiệp định thực thi điều VI của hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (chống bán phá giá) Hiệp định thực hiện điều VII của hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (xác định trị giá hải quan) Hiệp định về giám định hàng hoá trước khi xếp hàng Hiệp định về Quy tắc xuất xứ Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng Hiệp định các biện pháp tự vệ Hiệp định về thương mại dịch vụ Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp Cơ chế rà soát chính sách Thương mại 2. Môi trường pháp lý sẽ thay đổi: Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý nền kinh tế thị trường tiếp tục phải điều chỉnh và bổ sung đáp ứng các cam kết quốc tế: trong đó ưu tiên sửa đổi các văn bản nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO và ưu tiên thực hiện các cam kết quốc tế lên trên luật pháp trong nước. 3. Phải mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ nước ngoài: Một trong những vấn đề chính trong quá trình cải cách kinh tế và tự do hoá thương mại là việc thích ứng nền kinh tế trong nước với hội nhập kinh tế quốc tế. Theo lộ trình gia nhập WTO, ta sẽ phải cắt giảm thuế quan và các rào cản phi quan thuế, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia đối với các doanh nghiệp nước ngòai trên thị trường Việt Nam... nên việc đứng vững được trên thị trường nội địa sẽ là một thách thức rất lớn khi gia nhập WTO. Do các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng cạnh tranh không cao và hiện vẫn còn có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước nên sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thích ứng với sự cạnh tranh gia tăng và quyết liệt của các công ty nước ngoài trên thị trường nội địa cũng như trong việc tranh thủ các cơ hội mới để đẩy mạnh xuất khẩu. 4. Năng lực của  đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn yếu: Tuy đã được tăng cường nhiều trong thời gian qua nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. CÁC DOANH NGHIỆP PHẢI LÀM GÌ TRONG TIẾN TRÌNH HNKTQT Doanh nghiệp là trung tâm của hội nhập kinh tế quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế chỉ có thể thành công với sự nỗ lực tối đa của các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp cụ thể hóa những cơ hội và đấu tranh vượt qua các thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Để có thể hạn chế tối thiểu những bất lợi và tận dụng tối đa các cơ hội do HNKTQT đem lại, các doanh nghiệp cần triển khai sớm những việc sau đây: 1. Nghiên cứu quán triệt các chủ trương đường lối của Đảng và Chính phủ về hội nhập kinh tế quốc tê: nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình Hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW để có định hướng đúng đắn, đồng thời đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu rõ nội dung cụ thể của các chương trình hợp tác trong khuôn khổ các tổ chức WTO, ASEAN, APEC, ASEM, v.v… nhằm định hình được rõ nét những việc mình cần làm, trước mắt  và lâu dài, cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chung của cả nước. 2. Sự thành công trong quá trình hội nhập  kinh tế tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của từng doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải tự xác định chiến lược riêng cho đơn vị mình. Một mặt, phải quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư cho sản xuất các mặt hàng có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh, lấy thị trường làm định hướng. Mặt khác, cần khai thác các cơ hội từ các cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, khuyếch trương đầu tư. Hạch toán chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Chiến lược 2 trọng điểm sản xuất và kinh doanh tiêu thụ là đòi hỏi rất thực tiễn đảm bảo thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 3. Cần nắm vững các cam kết cụ thể về ưu đãi thuế quan, cắt giảm hàng rào phi quan thuế, cắt giảm Quota, hạn chế số lượng, chế độ giấy phép, thủ tục và chế độ hải quan, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh động thực vật, v.v... Các doanh nghiệp cần đảm bảo rằng các thông tin, tư liệu trên đây phải luôn được cập nhật. UBQG-HTKTQT, Bộ Thương mại và các Bộ, Ngành chủ quản là các cơ quan có trách nhiệm phải cung cấp, hướng dẫn các doanh nghiệp phân tích, sử dụng các thông tin, tư liệu này. 4. Các doanh nghiệp cần có bộ phận chuyên trách về hội nhập kinh tế quốc tế để biến các thông tin, cam kết quốc tế của Việt Nam thành lợi ích của chính đơn vị mình. Doan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctom_tat_co_ban_ve_cam_ket_gia_nhap_wto_cua_viet_nam.doc
Tài liệu liên quan