Luật Hồng Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ hiện
còn được lưu giữ đầy đủ. Do các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam
đều có tên gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây dùng tên gọi Luật Hồng Đức làm
tên gọi cho bài mặc dù nó không phải là tên gọi chính thức.
Nó có thể coi là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều
ngành luật khác nhau: Luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia
đình, luật hành chính v.v
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongzn | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tóm lược luật Hồng Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm lược luật hồng đức
Luật Hồng Đức là tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật thời Lê sơ hiện
còn được lưu giữ đầy đủ. Do các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam
đều có tên gọi là Quốc triều hình luật nên ở đây dùng tên gọi Luật Hồng Đức làm
tên gọi cho bài mặc dù nó không phải là tên gọi chính thức.
Nó có thể coi là bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều
ngành luật khác nhau: Luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia
đình, luật hành chính v.v…
Lịch sử
Văn bản của bộ luật này là một trong những thư tịch cổ nhất hiện còn được lưu trữ
tại Viện nghiên cứu Hán-Nôm (Hà Nội). Tại đây có hai bản in ván khắc đều có tên
là Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có một bộ sách chép tay tuy có tên gọi là Lê
triều hình luật, nhưng nội dung của nó lại là bản sao lại của Quốc triều hình luật
(nhà Hậu Lê) và chép vào thời gian sau này.
Trong đó bản Quốc triều hình luật mang ký hiệu A.341 là bản in ván khắc hoàn
chỉnh hơn cả và được coi là văn bản có giá trị nhất. Bộ luật trong sách này gồm 6
quyển, in ván khắc trên giấy bản, tổng cộng gồm 129 tờ đóng chung thành một
cuốn. Sách không ghi tên tác giả, không có dấu hiệu niên đại soạn thảo hay niên
đại in ấn và cũng không có lời tựa hoặc các chú dẫn khác. Bìa nguyên bản cuốn
sách đã mất, được thay thế bằng một tờ bìa viết 4 chữ Hán là Quốc triều hình luật
bằng bút lông. Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong
phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn
sách này 143 điều trong tổng số 722 điều.
Từ đầu thế kỷ 20, Quốc triều hình luật đã được khảo dịch sang tiếng Pháp. Đến
năm 1956, nó mới được dịch sang quốc ngữ lần đầu tiên (bản dịch của trường luật
khoa đại học do Lương Thần Cao Nãi Quang phiên âm, và dịch nghĩa, Nguyễn Sĩ
Giác hiệu đính, Vũ Văn Mẫu viết lời tựa, nhà in Nguyễn Văn Của, Sài Gòn, 1956).
Gần đây, Viện Sử học Việt Nam đã dịch thuật lại cho chuẩn xác hơn. (Nhà xuất
bản Pháp lý, Hà Nội - 1991).
Một số học giả Pháp, khi khảo dịch và nghiên cứu cho rằng nó có tên là Lê triều
hình luật và nó là Lê triều điều luật được in năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 3Cool mà
Phan Huy Chú đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí sau khi họ nghiên
cứu thiên Hình luật chí trong cuốn sách này của ông cũng như bản chép tay của
Quốc triều hình luật. Theo Vũ Văn Mẫu, Quốc triều hình luật được ban bố lần đầu
tiên trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và có lẽ vào thời gian cuối của
niên hiệu này. Ý kiến của Vũ Văn Mẫu chủ yếu dựa vào ý kiến của Phan Huy Chú
viết về việc ban hành dưới thời Lê bộ Hồng Đức hình luật và lời đề tựa của vua
Gia Long triều Nguyễn cho bộ Hoàng Việt luật lệ, trong đó ông đánh giá rất cao
bộ luật cổ này và gọi nó là bộ luật Hồng Đức.
Các ý kiến khác cho rằng bộ Quốc triều hình luật đã được soạn, sửa đổi liên tục từ
đầu thời kỳ nhà Hậu Lê, trong đó có những đóng góp to lớn dưới thời Lê Thánh
Tông. Các ý kiến này chủ yếu dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư với ghi chép là năm
Thái Hòa thứ 7 (1449), vua Lê Nhân Tông đã bổ sung thêm vào bộ hình luật
chương điền sản gồm 14 điều. Ngoài ra, qua các sử sách khác và qua các lần in
khắc ván (với những điểm khác nhau về nội dung của các văn bản), các bổ sung và
tên gọi các đơn vị hành chính ghi trong bộ luật v.v có thể nhận thấy bộ luật này
được soạn thảo, bổ sung, hiệu đính qua nhiều đời vua triều Lê. Thời điểm khởi
thảo, ban hành lần đầu cho đến nay vẫn chưa rõ.
Bố cục
Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển
(5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra,
trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu
quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng,
gông, dây sắt v.v).
Bố trí cụ thể như sau:
[list:1pxl2r
2c]1.Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi
phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị,
chuộc tội bằng tiền v.v)
2.Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các
tội về cấm vệ.
3.Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan
lại, các tội về chức vụ.
4.Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của
tướng, sĩ, các tội quân sự.
5.Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các
tội phạm trong các lĩnh vực này.
6.Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14
điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước
bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội
phạm trong lĩnh vực này.
7.Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
8.Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội
chính trị như phản nước hại vua.
9.Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các
tội vu cáo, lăng mạ v.v
10.Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
11.Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh
trên đây.
12.Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội
thuộc lĩnh vực này.
13.Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các
tội phạm trong lĩnh vực này.
Hai chương cuối này đã có một số quy định về tố tụng, nhưng chưa hoàn
chỉnh.[/list:u:1pxl2r2c]
Các quy định dân sựTrong bộ luật Hồng Đức, các quan hệ dân sự được đề cập tới
nhiều nhất là các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế
ruộng đất.
Sở hữu và hợp đồng
QTHL đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở
hữu nhà nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư).
Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn diện
về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước về ruộng
đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ
sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công (điều 342), không
được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343), không được nhận bậy ruộng
đất công đã giao cho người khác (điều 344), cấm làm sai quy định phân cấp ruộng
đất công (điều 347), không để bỏ hoang ruộng đất công (điều 350), cấm biến
ruộng đất công thành tư (điều 353), không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) v.v
Bên cạnh đó việc bảo hộ quyền sở hữu tư nhân/ hợp đồng về ruộng đất tư cũng
được quy định rõ ràng. Chẳng hạn, cấm xâm lấn ruộng đất của người khác (điều
357), cấm tá điền tranh ruộng đất của chủ (điều 356), cấm ức hiếp để mua ruộng
đất của người khác (điều 355) v.v
Qua một số quy định trên, có thể thấy bộ luật đã điều chỉnh 3 loại hợp đồng về
ruộng đất:
• Mua bán ruộng đất
• Cầm cố ruộng đất
• Thuê mướn ruộng đất
Về hình thức, các hợp đồng thường phải lập thành văn tự giữa các bên tham gia
hợp đồng với sự chứng thực của quan viên có thẩm quyền.
Thừa kế
Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với
các quan điểm hiện đại về thừa kế. Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh
các quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng
họ. Thứ hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354, 388) và thừa kế
không di chúc (thừa kế theo luật) với các điều 374-377, 380, 388. Điều đáng chú ý
là bộ luật Hồng Đức cho người con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người
con trai là một điểm tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong kiến khác. Đây
chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.
Các quy định hình sự
Các nguyên tắc chủ đạo
Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung
của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự chủ yếu của nó là:
• Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ
khép tội khi trong
bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định
và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.
• Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với
địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v
• Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng,
biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác
(mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe,
giáo dục) không cho chuộc.
• Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người
khác.
• Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định
về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng,
tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập
ác, giết người).
• Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)
Tội phạm
• Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)
• Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội
• Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội
• Tính chất đồng phạm
Các nhóm tội cụ thể
• Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:
Các tội liên quan đến vương quyền: mưu phản, mưu đại nghịch (điều 2,
411), mưu bạn (phản bội tổ quốc-điều 412), đại bất kính (430, 431).
Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân-gia đình: ác nghịch (điều 416), bất
hiếu (nhiều điều, chẳng hạn điều 475), bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
Tội liên quan đến tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo: bất đạo (420 và
421).
• Các nhóm tội phạm khác: bao gồm các tội liên quan đến sự an toàn thân thể của
vua, nghi lễ cung đình, xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính, thể thức
nghi lễ triều đình, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con
người, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, các tội phạm
quân sự, xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất, xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình,
các tội tình dục, các tội xâm phạm chế độ tư pháp v.v
Hình phạt
Quan niệm về hình phạt trong bộ luật khá chi tiết nhưng cứng nhắc với khung hình
phạt thường là cố định, tuy rằng có tính đến các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ
(điều 41).
Các hình phạt cụ thể có ngũ hình và các hình phạt khác.
Ngũ hình
Ngũ hình được quy định tại điều 1 và bao gồm: xuy, trượng, đồ, lưu, tử.
• Xuy (đánh bằng roi) có 5 bậc: 10, 20, 30, 40, 50 roi, có thể kèm phạt tiền và
biếm chức, áp dụng cả cho nam và nữ.
• Trượng (đánh bằng gậy) cũng có 5 bậc: 60, 70, 80, 90 và 100 trượng, chỉ áp dụng
cho nam.
• Đồ có 3 bậc là:
o Dịch đinh kèm 80 trượng cho nam và dịch phụ kèm 50 roi cho nữ. Dịch
đinh/dịch phụ có nhiều hạng là:
Thuộc đinh: phục dịch ở các viện (dành cho quan chức có tội)
Quân đinh: phục dịch ở các sảnh
Khao đinh: phục dịch ở trong trại lính
Xã đinh: phục dịch ở các xã (dành cho thường dân nam có tội)
Thứ phụ: phục dịch công việc ở làng (dành cho thường dân nữ có tội)
Viên phụ: làm các công việc trong vườn (dành cho vợ các quan chức)
Tang thất phụ: phục dịch ở các nơi nuôi tằm, nếu phạm tội nặng
o Tượng phường binh (quét dọn chuồng voi kèm 80 trượng và thích 2 chữ vào
mặt) cho nam và xuy thất tỳ (nấu cơm nuôi quân kèm 50 roi và thích 2 chữ vào cổ)
cho nữ.
o Chủng điền binh (lính lao động ở đồn điền của nhà nước kèm 80 trượng và thích
vào cổ 4 chữ, phải đeo xiềng) cho nam và thung thất tỳ (xay thóc giã gạo trong các
kho thóc thuế của nhà nước kèm 50 roi và thích vào cổ 4 chữ) cho nữ.
• Lưu tức lưu đày đi nơi xa, có 3 bậc là:
o Lưu cận châu, đày đi làm việc nặng ở Nghệ An với hình phạt phụ là thích vào
mặt 6 chữ, đánh 90 trượng, đeo xiềng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
o Lưu ngoại châu: Lưu đày đến Bố Chánh, Quảng Bình. Phụ hình có 90 trượng,
thích 8 chữ vào mặt, đeo xiềng 2 vòng dành cho nam và đánh 50 roi cho nữ.
o Lưu viễn châu: đày đi Cao Bằng. Phụ hình gồm 100 trượng, thí
ch 10 chữ vào mặt, đeo xiềng 3 vòng cho nam, đánh 50 roi cho nữ.
• Tử (giết chết) có 3 bậc là:
o Giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu)
o Khiêu (chém bêu đầu)
o Lăng trì (tùng xẻo) tức xẻo từng miếng thịt rồi mổ bụng, moi ruột cho đến chết,
sau đó còn bị cắt rời chân tay và bẻ gãy hết xương.
Các hình phạt khác
Ngoài ngũ hình, luật Hồng Đức còn áp dụng các hình phạt khác như:
• Biếm tư (điều 27, 46) bao gồm các bậc từ 1 đến 5 tư nhưng có quy định cho
chuộc tội biếm bằng tiền theo điều 22.
• Phạt tiền (điều 26) có 3 bậc: 300-500 quan, 60-200 quan và 5-50 quan. Ngoài ra
còn có quy định về tiền bồi thường tang vật (điều 2Cool, tiền đền mạng (điều 29).
• Tịch thu tài sản có 2 bậc là tịch thu toàn bộ gia sản (nặng theo điều 426, 430) và
tịch thu một phần tài sản (nhẹ, các điều 88, 523)
• Thích chữ vào cổ hoặc mặt: Được áp dụng như là hình phạt phụ đối với các tội
lưu, đồ, trượng, xuy.
• Xung vợ con làm nô tỳ. Chỉ áp dụng đối với các tội mưu phản, mưu đại nghịch,
mưu bạn trong thập ác (điều 411, 412).
Các quy định trong hôn nhân-gia đình
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của bộ luật là: hôn nhân không tự
do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Nó thể hiện lễ nghĩa Nho giáo,
trật tự xã hội-gia đình phong kiến, tuy nhiên vẫn có một số điểm tiến bộ.
Hôn nhân
Trong lĩnh vực hôn nhân, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như kết hôn, chấm dứt
hôn nhân (do chết hoặc ly hôn).
Kết hôn
Trong quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có sự
đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người trong họ
hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (điều
317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (điều 318),
cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa của thày (điều 324), với một
số quy định khác trong các điều 316, 323, 334, 338, 339.
Tuy nhiên, luật Hồng Đức không quy định tuổi kết hôn, mặc dù trong Thiên Nam
dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: “Con trai 18 tuổi, con gái 16 tuổi
mới có thể thành hôn”, có lẽ là do đã tồn tại một văn bản khác cùng thời quy định
về điều này.
Luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và
thành hôn (các điều 314, 315, 322). Lưu ý là luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn
nhân có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã
nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng…Còn người con
gái phải gả cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho
đến khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có
quyền từ hôn.
Chấm dứt hôn nhân
Luật Hồng Đức quy định các trường hợp chấm dứt hôn nhân là: một trong người
đã chết, ly hôn.
Về trường hợp chấm dứt hôn nhân do một trong hai người đã chết cần lưu ý là
quan hệ hôn nhân chỉ thực sự chấm dứt ngay nếu người chết là vợ, còn nếu là
chồng chết thì nó chỉ chấm dứt sau khi mãn tang. Quy định này được đặt ra một
cách gián tiếp trong các điều 2 và 320.
Về trường hợp ly hôn có ba nhóm sau:
1. Buộc phải ly hôn (các điều 317, 318, 323, 324, 334) do hôn nhân đã vi phạm
các quy định cấm kết hôn.
2. Ly hôn do lỗi của người vợ: Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn khi
người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng) như:
không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không
kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
3. Ly hôn do lỗi của người chồng: Các điều 308 / 333 quy định người vợ có quyền
trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có quan xã
làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi mắng
nhiếc cha mẹ vợ.
Quan hệ gia đình
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như quan hệ
nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thân thuộc khác (vợ
cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con nuôi, vai trò của người tôn trưởng tức trưởng
họ).
• Quan hệ vợ-chồng: Ph
ong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên
luật Hồng Đức cũng có các quy định nhằm điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân
thân như: Nghĩa vụ phải chung sống tại một nơi và phải có trách nhiệm với nhau
(các điều 321 và 308, 309), không được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung
thủy (điều 401, 405), nghĩa vụ để tang nhau (các điều 2, 7).
• Quan hệ cha mẹ-con cái: Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của con
cái, bao gồm: nghĩa vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà (khoản 7
điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều 3Cool, nghĩa
vụ không được kiện cáo ông bà-cha mẹ (điều 511), nghĩa vụ che dấu tội cho ông
bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ hay ông bà phạm các tội
mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi giết con đẻ hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì
được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bà-cha mẹ (điều 2).
• Quan hệ nhân thân khác: Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309, 481,
483, 484) và nhà chồng, anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi (các điều
380, 381, 506) và vai trò của người trưởng họ (điều 35).
Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ thì ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với
chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung
được ưu tiên hơn. Về quan hệ anh-chị-em thì người anh trưởng có quyền và nghĩa
vụ đối với các em, nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời cũng bảo vệ sự hòa thuận
trong gia đình (phạt nặng đánh lộn, kiện cáo nhau). Việc nhận nuôi con nuôi phải
được lập thành văn bản và phải đối xử như con đẻ cũng như ngược lại, con nuôi
phải có nghĩa vụ như con đẻ đối với cha mẹ nuôi.
Các quy định tố tụng
Mặc dù không được tách bạch ra thành các chương riêng rẽ, nhưng luật Hồng Đức
đã thể hiện một số khái niệm của luật tố tụng hiện đại như:
• Thẩm quyền và trình tự tố tụng của các cấp chính quyền (điều 672)
• Thủ tục tố tụng (phần lớn của hai chương cuối) như đơn kiện- đơn tố cáo (các
điều 508, 513, 698), thủ tục tra khảo (các điều 546, 660, 665, 667, 668, 714, 716),
thủ tục xử án (các điều 671, 709), phương pháp xử án (các điều 670, 683, 686,
708, 714, 720, 722), thủ tục bắt người (các điều 646, 658, 659, 663, 676, 680, 701-
704).
SO SÁNH
Giống như các bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất giai
cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền
lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong
kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo. Tuy vậy,
không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó.
Luật Trung Hoa
Luật Hồng Đức tiếp thụ nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh hưởng
của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có những điểm không
giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội dung lẫn bố
cục.
Về bố cục, bộ Đường luật có 500 điều chia thành 12 chương (Danh lệ, Vệ cấm,
Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá ngụy, Tạp luật,
Bộ vong, Đoán ngục) trong 30 quyển. Có thể thấy, trong luật Hồng Đức các quy
định về các nhóm tội tình dục và các vấn đề ruộng đất được quy định riêng biệt và
cụ thể hơn.
Về nội dung, các quy định về hôn nhân-gia đình, điền sản của luật Hồng Đức được
chú trọng hơn so với Đường luật (quy định cụ thể về văn tự, chúc thư, chế độ và
phương thức chia thừa kế, tài sản của vợ-chồng khi góa bụa v.v). Chính vì thế, sau
này các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm Sài Gòn thời Việt Nam Cộng
hòa hay dựa trên các quy định này của luật Hồng Đức để phân xử các vụ kiện tụng
liên quan tới tài sản vợ-chồng.
Bộ luật nhà Nguyễn
So với bộ Hoàng Việt luật lệ (HVLL hay luật Gia Long) (năm 1811) ra đời sau
hàng thế kỷ, có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao và phân
ngành rõ như HVLL. Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong luật
Hồng Đức lại tốt hơn so với HVLL. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu đã viết khi nhận xét
về HVLL “bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ
trong bộ luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà
Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc thư,
đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng.” (Vũ Văn Mẫu, Cổ
luật Việt Nam và tư pháp sử, quyển 1, tập 1, Sài Gòn, 1973).
Các điểm tiến bộ
1. Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó cho thấy vai trò của người phụ nữ đã
được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Nó cho
thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ có
quyền thừa kế như nam giới.
2. Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với
phạm nhân nam.
3. Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt
rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của
người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v
4. Điểm thứ tư, luật Hồng Đức thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường. Trong
bộ luật có nhiều điều trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý ức hiếp,
nhũng nhiễu thường dân (các điều 294, 300, 302, 304, 365).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_5.PDF