Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân tố quan trọng quyết định của quá trình sản xuất. Giữa nông dân và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân làm chủ ruộng đất hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên mảnh đất của người khác. Theo như ý kiến của Willian Petty thì: “lao động là cha, đất là mẹ của của cải vật chất”
Ở nước ta, trước khi Thực dân Pháp xâm lược, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước phong kiến, người nông dân chỉ là tá điền cho Nhà nước và địa chủ. Họ bị địa chủ bóc lột bởi địa tô cao. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ta lúc này là mâu thuẫn địa chủ và nông dân.
Năm 1858, Thực dân Pháp xâm lược nước ta, bên cạnh những hình thức bóc lột của thực dân, chúng vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Xã hội nước ta từ đó có tính chất thuộo c địa với những tàn dư phong kiến nặng nề. Ruộng đất không những bị đế quốc cướp đoạt mà địa chủ người Việt được sự che chở và dung dưỡng của bọn thực dân cũng ra sức cướp đoạt của nhân dân. Bởi vậy mà, nét nổi bật trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời thuộc Pháp là cảnh đói nghèo và lạc hậu của người nông dân. Do thực dân Pháp xâm lược nước ta, thống trị và bóc lột nhân dân ta thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân. Mặc dù ruộng đất là một yêu cầu thực tế của nông dân, nhưng lúc này đó không phải là yêu cầu số một mà yêu cầu trên hết là dân tộc giải phóng.
27 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 2108 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tình hình quan hệ ruộng đất ở Việt Nam trước cách mạng tháng 8 -1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Ruộng đất và nông dân là những yếu tố cơ bản của nông nghiệp và nông thôn. Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng nhất, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt không có gì có thể thay thế được, còn nông dân lao động lại là nhân tố quan trọng quyết định của quá trình sản xuất. Giữa nông dân và ruộng đất có mối quan hệ: hoặc nông dân làm chủ ruộng đất hoặc nông dân chỉ là người làm thuê trên mảnh đất của người khác. Theo như ý kiến của Willian Petty thì: “lao động là cha, đất là mẹ của của cải vật chất”
Ở nước ta, trước khi Thực dân Pháp xâm lược, ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước phong kiến, người nông dân chỉ là tá điền cho Nhà nước và địa chủ. Họ bị địa chủ bóc lột bởi địa tô cao. Từ đó nảy sinh mâu thuẫn cơ bản trong xã hội ta lúc này là mâu thuẫn địa chủ và nông dân.
Năm 1858, Thực dân Pháp xâm lược nước ta, bên cạnh những hình thức bóc lột của thực dân, chúng vẫn duy trì phương thức bóc lột phong kiến. Xã hội nước ta từ đó có tính chất thuộo c địa với những tàn dư phong kiến nặng nề. Ruộng đất không những bị đế quốc cướp đoạt mà địa chủ người Việt được sự che chở và dung dưỡng của bọn thực dân cũng ra sức cướp đoạt của nhân dân. Bởi vậy mà, nét nổi bật trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời thuộc Pháp là cảnh đói nghèo và lạc hậu của người nông dân. Do thực dân Pháp xâm lược nước ta, thống trị và bóc lột nhân dân ta thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân. Mặc dù ruộng đất là một yêu cầu thực tế của nông dân, nhưng lúc này đó không phải là yêu cầu số một mà yêu cầu trên hết là dân tộc giải phóng.
Nhận thức được những thực tiễn trong xã hội Việt Nam, đầu năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, trong Cương lĩnh chính trị cảu mình Đảng đã đề ra nhiệm vụ phải giải phóng nông dân khỏi ách đế quốc và phong kiến địa chủ, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nông dân “ Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến”; “ Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo” [5; Tr 80, 81,82]. Trong bối cảnh xã hội thuộc địa như Việt Nam Đảng ta luôn coi quyền lợi dân tộc phải được đặt cao hơn quyền giai cấp. Giả phóng dân tộc được xác định là mục đích cao nhất, thực hiện nhiệm vụ dân chủ trở thành động lực mạnh mẽ cho bước phát triển giải phóng dân tộc.
Thắng lợi vĩ đại của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mang lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước dã tâm quay lại xâm lược của thực dân Pháp, dân tộc Việt Nam phải tiếp tục đứng lên giành lại quyền làm chủ đất nước . Trước hoàn cảnh đó, Đảng ta đã có một chính sách để giải quyết nhiệm vụ dân chủ (vấn đề ruộng đất) và nhiệm vụ dân tộc hết sức sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tế cách mạng ở nước ta, đó là cuộc cải cách ruộng đất 1945-1956. Để góp phần vào việc tìm hiểu những chủ trương chính sách của Đảng , những tác dụng của cuộc cải cáchnày trong việc giải quyết các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ ở nước ta trong giai đoạn 1945-1946. Em chọn nội dung: “Đảng lãnh đạo thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam ( 1945-1957)” để làm bài tiểu luận của mình.
NỘI DUNG
1. Tình hình quan hệ ruộng đất ở Việt Nam trước cách mạng tháng 8 -1945
Trước khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, ruộng đất nước ta được quy gọn thành ba hình thức sở hữu là: ruộng đất công Nhà nước, ruộng đất công làng xã, ruộng đất tư. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đến cách mạng tháng Tám thì trong quan hệ sở hữu sở hữu ruộng đất nước ta có thêm “người chủ mới” tham gia cjieems đoạt và có chính sách như thực dân hóa, tư bản hóa khai thác sử dụng đất đai trên nền sở hữu phong kiến về ruộng đất đã có từ lâu đời. Nhìn chung lại, quan hệ ruộng đất trước cánh mạng tháng Tám, chúng ta thấy rõ có bốn chế độ sở hữu chính cùng tồn tại cùng nhau:
Chế độ sở hữu của nông dân. Ruộng đất thuộc chế độ sở hữu này đều thuộc về nông dân. Trên những mảnh đất nhỏ bé của họ, người nông dân đã tự cày cấy, làm ăn. Nói là của nông dân nhưng thật ra cũng chỉ là của phần lớn trung nông và một số rất ít bần nông, còn nói chung, bần cố nông và một phần trung nông đều không có ruộng hoặc thiếu ruộng cày. Chế độ sở hữu của nông dân chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong toàn bộ diện tích (trên dưới 30%), trong lúc đó về mặt nhân khẩu nông thôn, nông dân lại chiếm đến tuyệt đa số (95% thậm chí là hơn nữa). Chế độ sở hữu này nói chung là chuyển biến theo chiều hướng rút hẹp lại, theo “quy luật phá sản” và bần cùng hóa dần dần của các tầng lớp nông dân, do chế độ kinh tế cũ, thuộc địa và nửa phong kiến gây nên.
Chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến. Ruộng đất thuộc chế độ sở hữu này đều nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến. Giai cấp này đã dùng phát canh thu tô làm phương thức kinh doanh ruộng đất chủ yếu. Phần lớn ruộng đất nước ta (khoảng 50%) là thuộc chế độ sở hữu này, trong lúc đó giai cấp địa chủ phong kiến chỉ chiếm một tỉ lệ nhân khẩu rất nhỏ trong nông thôn (3% đến 5%). Chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến dần dần được mở rộng, trên cơ sở chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.
Chế độ sở hữu của bọn tư bản thực dân Pháp. Đây là những đồn điền lúa, cao su, cà phê, chè, v..v.. ở rải rác khắp nơi trong nước. Bọn tư bản thực dân Pháp đã dùng lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa kết hợp với những thủ đoạn bóc lột phong kiến và nửa phong kiến, trên những đồn điền này. Đất đai thuộc chế độ sở hữu của tư bản thực dân Pháp chiếm đến 9% diện tích ruộng đất trồng lúa trong nước, và được phát triển rất nhanh chóng trong 30 năm đầu của thế kỷ XX. Sự phát triển của chế độ sở hữu này cũng là dựa trên sự chiếm đoạt ruộng đất và bóc lột nhân công của bọn thực dân đối với nông dân Việt Nam
Chế độ sở hữu ruộng đất công. Loại này về thực chất cũng là một chế độ sở hữu phong kiến, vì phần lớn ruộng đất công bị cường hào và địa chủ lũng đoạn. Những ruộng đất công này tuy vẫn được duy trì nhưng cũng dần dần bị rút hẹp, một phần đã trở thành sở hữu tư nhân (địa chủ phong kiến hoặc tư bản thực dân Pháp)
Ngoài bốn loại chế độ sở hữu chính này, còn có những loại chế độ sở hữu ruộng đất chính khác ở vùng thiểu số, vùng công giáo, v.v.... Ở đây chỉ xin nói thêm về chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà chung. Sự hình thành chế độ sở hữu này, do mấy nguồn ruộng đất sau đây tạo nên: ruộng đất Nhà chung tậu; ruộng đất do sự quyên cúng của quần chúng giáo dân; ruộng đất do chính quyền thực dân cấp cho; ruộng đất do sự bóc lột và chiếm đoạt của nông dân mà có; ruộng đất riêng của cha cố; v.v.. Chế độ sở hữu ruộng đất của Nhà chung căn bản là có tính chất của loại sở hữu phong kiến. Địa chủ Nhà chung không những chỉ dựa vào bóc lột nông dân như những địa chủ khác để làm giàu tậu ruộng, chiếm đoạt ruộng đất trừ nợ mà còn dựa vào thế lực nhà nước Thực dân, dựa vào uy thế của nhà thờ với giáo dân để mở rộng chế độ sở hữu của mình. Vì vậy, không có gì lạ khi thấy các vùng công giáo là những vùng ruộng đất tương đối tập trung hơn những vùng khác không phải công giáo. Số ruộng đất của Nhà chung chiếm độ 1% diện tích cả nước, tức vào khỏng 4 vạn rưỡi đến 5 vạn hecta, và con số đó có chiều hướng phát triển trong thời gian trước cánh mạng tháng tám.
Tất cả các loại chế độ sở hữu ruộng đất nói trên là một cơ sở đầy đủ của tính chất thuộc địa và nửa phong kiến của xã hội Việt Nam trước đây. Thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam nắm quyền chi phối kinh tế nông thôn nước ta và cơ sở của nền kinh tế đó là chế độ sở hữu ruộng đất có tính chất thuộc địa và nửa phong kiến.
Trong bản báo cáo về thực hiện cải cách ruộng đất, đồng chí Trường Trinh có nhận định:
Đại bộ phận kinh tế nước ta là nông nghiệp... ruộng đất tập trung vào tay số ít người là giai cấp địa chủ phong kiến và một phần vào tay thực dân Pháp. Nông dân là số đông người đã dùng sức lao động của mình để làm thành ra đồng ruộng, có công sản xuất để nuôi dân tộc và giữ vững đất nước từ khi lập quốc đến nay, mà vẫn không có ruộng đất hoặc thiếu ruộng đất bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột thậm tệ.
Quan hệ sở hữu ruộng đất nước ta trước cách mạng tháng Tám nói trên đã giải thích tại sao đời sống nông dân Việt Nam ngày càng khốn quẫn trong những điều kiện sản xuất tương đối thuận lợi, tại sao nông dân đã hăng hái tham gia cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Nó cũng cắt nghĩa tại sao cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải lấy vấn đề ruộng đất làm cơ sở. Nó chứng minh một cách hùng hồn nguyên lí của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề dân tộc nói rằng: Vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân
2. Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Macxit – Lêninnit
Tình hình phân phối ruộng đất và sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến và của bọn địa chủ thực dân đối với nông dân đã nói lên tính chất cực kì nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất ở nước ta dưới thời thực dân Pháp thống trị. Nó cũng nói lên tính chất đặc biệt sâu sắc của của mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, mâu thuẫn này cùng với mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc xâm lược Pháp là hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nước ta trong thời đó.
Trước khi chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời, trong hơn một thế kỷ, nhiều giai cấp và tầng lớp đã đứng lên lãnh đạo nhân dân ta vùng lên chống bọn xâm lược. Nhưng do tính chất hạn chế về mặt giai cấp của họ, chưa có một giai cấp hay tầng lớp nào nhận thức được tính chất bức thiết của vấn đề ruộng đất ở nước ta cũng như mối liên hệ quan hệ khăng khít của nó với vấn đề giải phóng dân tộc. Và đó, chính là nguyên nhân khiến cho họ không lôi cuốn được nông dân đông đảo và do đó, không tránh khỏi thất bại. Chỉ đến khi giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị thì vấn đề ruộng đất và nông dân mới nhận thức được đúng tầm quan trọng của nó và đặt thành một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng.
Căn cứ vào học thuyết Mác – Lênin về vấn đề chính quyền, về liên minh công nông và cách mạng ruộng đất, xuất phát từ tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt vấn đề cách mạng ruộng đất là nội dung chủ yếu của nhiệm vụ chống phong kiến và là một trong hai nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ngay từ khi mới ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch rõ: cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng bao gồm làm “cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [12; Tr 41]. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cách mạng ruộng đất đã đặt thành nhiệm vụ cơ bản của cách mạng, được đặt ngang hành với nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Tháng 10 - 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương đưa ra Luận cương chính trị. Luận cương khẳng định cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, đó là cuộc cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế. Trong đó “thổ địa là cái cốt của cách mạng”. Luận cương đã nhận định:
“Nông nghiệp thì phần nhiều là phải làm cho ra đế quốc chủ nghĩa đem bán ở nước ngoài, tuy vậy mà cách kinh dịch vẫn không thoát khỏi lốt phong kiến. Các thứ đồn điền (cao su, bông, cà phê...) thì phần nhiều là của bọn tư bản Pháp. Ruộng đát phần rất nhiều là của bọn địa chủ bổn xứ, kinh dinh theo lối phong kiến, nghĩa là cho dân nghèo cày thuê từng miếng mà lấy địa tô rất cao. Hoa lợi về nghề làm ruộng ở Đông Dương lại kém hơn ở các xứ khác (một hectare ở Mã-lai thì đuaọc 2.150 ki-lô lúa, ở Xiaam 1.870 ki-lô, ở Âu châu 4.570 ki-lô, ở Đông Dương chỉ được 1.210 ki-lô). Lúa gạo xuất cảng hàng năm càng nhiều, nhưng không phải vì nghề nông phát triển, mà chính vì bọn tư bổn cướp gạo của dân mà bán.[5; Tr 86]
... “Đế quốc chủ nghĩa Pháp liên hiệp với bon địa chủ, bộn lái buôn và bọn cho vay bổn xứ mà bóc lột dân cày một cách rất độc ác. Đế quốc chủ nghĩa rút các sản vật nông nghiệp đem bán cho nướ ngoài, đem hàng hóa của nó cho vào bán trong bản xứ, bắt dân đóng sưu cao, thuế nặng, làm dân cày đói khổ và thủ công thất nghiệp rất nhiều.
Ruộng đất thì lần lần rút vào tay đế quốc và địa chủ cả, lại có một bon bao đất về cho thuê lại (quá điền), ruộng đất thuê đi mướn lại mấy lần mới đến tay sân cày nghèo, bởi vậy mà địa tô rất cao.
Dân cày thiếu vốn đi vay thì phải bị bọn cho vay bóc lột, đến lỗi nhiều khi phải mang ruộng đất hoặc con cái mà gán nợ.
Đê giữ nước lụt thì đế quốc không chú ý sửa sang. Dẫn thủy nhập điền thì về tay một bọn tư bổn nó cho thuê rất cao, dân cày nghèo không có tiền thì không có nước. Thành thử nạn mất mùa vì nước lụt và đại hạn ngày càng nhiều. Vì vậy, dân cày chẳng những là không có thể phát triển kinh tế của họ mà lại càng ngày phải phụ thuộc vào bon tư bổn và ngày càng phải suy đồi, số người thất nghiệp và chết đói ngày càng đông.
Nền kinh tế cũ thì phá hoại rất mau, mà công nghệ mới thì phát triển rất chậm; những người đói khổ và thất nghiệp không thể hóa ra công nhân hết mà phải đọng lại trong quê nhà. Tình cảnh ở nhà quê cũng rất thê thảm”.[5; Tr 91 – 92]
Bởi vậy mà, sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng một mặt là phải đấu tranh để đánh đổ các di tích phong kiến,đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để; một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phhong kiến thì mói đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa. Như vậy, mặc dù Luận cương có những hạn chế nhất định do quá đề cao đấu tranh giai cấp, khi chưa thấy được nhiệm vụ dân tộc mới là nhiệm vụ chủ yếu nhất, khi cho “thổ địa cách mạng là cái cốt của cách mạng” nhưng qua đó ta cũng thấy được việc Đảng ta coi trọng nhiệm vụ ruộng đất, nhiệm vụ dân chủ.
Ngay sau khi Đảng và bản Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, theo phương pháp do nó vạch ra, một phong trào cách mạng của công nông dưới sự lãnh đạo của đảng đã diễn ra hết sức sôi nổi. Xô Viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào trong những năm 1930-1931. Mặc dù bị dìm trong máu lửa, phong trào xô viết Nghệ Tĩnh đã chứng minhh một cách hùng hồn tính chất đúng đắn của đường lối cách mạng do chính đảng của giai cấp công nhân đề ra và dựng lên khối liên minh công nông vững chắc – nguồn gốc của mọi sự thắng lợi sau này của cách mạng. Giai cấp công nhân Việt Nam từ đó đã tìm thấy lãnh tụ của mình là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản. Nhận thức đúng vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng thuộc địa, đặt ra và giải quyết một cách đúng đắn vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân, Đảng đã dấy lên được cao trào cách mạng của nông dân và trở thành lãnh tụ chân chính của cách mạng Việt Nam.
Vào giữa những năm 30, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới thứ II và nguy cơ phát xít, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ, hòa bình chống chế độ phản động và phát xít. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuyển hướng lãnh đạo của Đảng mở đầu từ Hội nghị tháng 6 – 1936 và bổ sung, phát triển trong các Hội nghị mở rộng của Đảng năm 1937 và năm 1938. Tại các hội nghị nói trên, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng tư sản dân quyền vẫn là chống đế quốc và phong kiến, nhưng trong tình hình lúc này, mục tiêu trực tiếp trước mắt là chống phát xít chống chiến tranh và bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Bởi vậy mà Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày” bằng khẩu hiệu “tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình”.
Năm 1940, phát xít Nhật đem quân chiếm đóng nước ta. Tình hình thế giới cũng như trong nước có những chuyển biến mới. Trước sự áp bức bóc lột tàn bạo của Pháp – Nhật, giai cấp địa chủ càng phân hóa rõ rệt. Trong thực tiễn, xuất hiện khả năng là giai cấp công nhân có thể trung lập một bộ phận giai cấp địa chủ và tranh thủ một bộ phận khác đi với cách mạng trên vấn đề giải phóng dân tộc. Vì vậy, trên vấn đề ruộng đất, Đảng đã nêu khẩu hệu “Tịch thu tài sản của bọn đế quốc Pháp – Nhật và bọn Việt gian,...thi hành giảm tô, chia lại công điền” (chương trình của mặt trận Việt minh – 1941). Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ trước mắt của toàn dân tộc. Đảng xác định “cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng phải giải quyết hai nhiệm vụ phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. [12; Tr 83 – 84]. Nhưng đó “không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn” [12; Tr 85]
Thật vậy, chính trị là nhờ có đường lối mặt trận dân tộc thống nhất đúng đắn của Đảng trong đó quyền lợi của nông dân được giải quyết một cách thỏa đáng, cho nên Đảng đã động viên được lực lượng to lớn của nông dân đồng thời tăng thêm được những lực lượng đồng minh, tạo thành một lực lượng dân tộc thật sự hùng mạnh, tiến lên cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến.
3. Đảng thực hiện giải quyết nhiệm vụ dân tộc và dân chủ qua cuộc cải cách ruộng đất (1945 – 1957)
3.1.Tại sao phải tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến?
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ Mặt trận Việt Minh đã lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật và thực dân Pháp, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng xóa bỏ chính quyền bù nhìn đại biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản, tay sai đắc lực của đế quốc xâm lược. Giai cấp địa chủ phong kiến đã mất chỗ dựa và không còn là giai cấp thống trị nữa. Tuy nhiên với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, thực dân Pháp với sự hậu thuẫn của Anh và Mỹ đã tiến hành xâm lược nước ta lần hai (23 – 9 – 1945). Trước tình cảnh đó, nhân dân ta lại một lần nữa phải đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc để bảo vệ nền độc lập cho dân tộc “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ”.
Trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848) Mac nói: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. “Dân tộc ta đang kháng chiến, kiến quốc. Lúc này mọi việc đều phải phục vụ kháng chiến thắng lợi kiến lợi, kiến quốc thành công. Cải cách ruộng đất chính là nhằm mục đích ấy”. [3; Tr 384]
Đế quốc và phong kiến là hai lực lượng nhất câu kết với nhau để thống trị nước ta đã gần một thế kỷ nay. Triều đình phong kiến đã ươn hèn đầu hàng, bán nước ta cho thực dân, đế quốc. Thực dân Pháp sau khi chiếm được nước ta đã dùng phong kiến làm chỗ dựa để xâm lược và áp bức boc lột đồng bào ta. Bởi vậy mà muốn đánh đổ đế quốc phải đồng thời đánh đổ phong kiến và ngược lại. Hai nhiện vụ phản đế và phản phong kiến có mối liên hệ khăng khít không thể tách rời. Song, cũng cần nhận rõ đế quốc là kẻ thù chủ yếu nhất của nhân dân ta, vì chúng hung ác nhất, đang đem quân xâm lược nước ta, tàn sát, áp bức và bóc lột đồng bào ta. Vì vậy, hai nhiệm vụ phản đế và phản phong kiến đều là chủ yếu, nhưng nhiệm vụ phản đế là chủ yếu nhất.
Công nông là những người đóng góp sức người, sức của nhiều nhất, hy sinh cho kháng chiến và cách mạng. Cuộc kháng chiến của ta được xác định là phải lâu dài. Yêu cầu của kháng chiến về sức người và sức của ngày một tăng. Người và của đó chủ yếu là do nông dân cung cấp. Nhưng nông dân vì thiếu thốn ruộng đất và không có ruộng đất, cho nên mới trở nên nghèo khổ và thiếu thốn. Vì vậy, cải cách ruộng đất đã đến lúc cần phải được tiến hành để “bồi dưỡng nông dân, bồi dưỡng kháng chiến, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến”.
Hiện nay, một mặt cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc ngày càng gay go và quyết liệt. Đế quốc thì tích cực dựa vào phong kiến để xây dựng ngụy quyền. Mặt khác, phong kiến ngày càng tích cực chống lại các chính sách ruộng đất, thuế nông nghiệp và tăng gia sản xuất. “Sau cách mạng tháng Tám, nhiều nơi địa chủ đã đoạt quyền lãnh đạo trong các tổ chức nông thôn. Thế lực chính trị của địa chủ chưa bị làm yếu tới mức độ cần thiết....Do đó, chỗ dựa của ta ở nông thôn chưa được vững mạnh, hậu phương của ta chưa được củng cố”.[3; Tr 394]
Cách mạng muốn thành công, sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc của toàn Đảng và toàn dân muốn tháng lợi thì chủ yếu phải dựa vào công nông, trong đó nông dân là lực lượng nòng cốt chủ yếu. Nguyện vọng của hàng chục triệu người nông dân ở nước ta lúc này là dân tộc độc lập và người cày có ruộng. Đó là hai vấn đề không thể tách rời. Vì vậy phải thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng để đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thật vậy, thực hiện cải cách ruộng đất thì quần chúng nông dân được ruộng đất, họ sẽ càng thêm phấn khởi tăng gia sản xuất, tham gia kháng chiến, lực lượng kháng chiến từ đó mà càng thêm mạnh. Muốn thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng phải từng bước thực hiện cải cách ruộng đất. “Ngày nay ta cải cách ruộng đất chính là để tích cực giải quyết vấn đề dân chủ và dân sinh”[3; Tr 391], để có thêm sức mạnh đánh đuổi đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ ra khỏi nước ta. Hơn nữa, “then chốt tháng lợi của kháng chiến là củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, cúng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân ...Chỉ có phát động quần chúng cải cách ruộng đất, ta mới có thể tiến hành những công việc đó được thuận lợi”[3; Tr 396].
3.2. Tiến hành cải cách từng phần – sự sáng tạo đúng đắn của Đảng ta (1945 – 1953)
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và toàn dân ta phải đứng trước muôn vàn khó khăn do thù trong, giặc ngoài gây nên. Thực dân Pháp được bọn đế quốc giúp sức ráo riết thực hiện âm mưu khôi phục quyền thống trị của chúng ở Đông Dương. Vì vậy. Đảng khảng định cuộc cách mạng ở Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng; khẩu hiệu đấu tranh vẫn là: “Dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết”. Trong tình hình đó, chính quyền cách mạng mới được thành lập chưa thể thực hiện ngay triệt để các chính sách cải cách dân chủ. Song, để đáp ứng một phần nào đó yêu cầu dân chủ của nhân dân, chính phủ lâm đã thi hành một số biện pháp như: Tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian phản động chia cho dân nghèo. Chia lại công điền cho công bằng và hợp lý hơn, thực hiện giảm tô, giảm tức, ...
Ngày 13 – 10 – 1945, Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thông tư 55-VP và ngày 20 – 11 – 1945, Chính phủ lâm thời đã ra thông cáo buộc chủ điền phải giảm 25% tô, chia lại ruộng đất công cho công bằng theo nguyên tắc dân chủ cho cả nam và nữ, tạm giao ruộng đất vắng chủ cho nông dân thiếu ruộng. Đây là văn kiện đầu tiên mà chính quyền cách mạng chính thức tấn công vào sự bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến, bảo vệ quyền lợi cho giai cấp nông dân.
Ngày 15 – 1 – 1948, Hội nghị Trung Ương Đảng mở rộng được triệu tập. Trên cơ sở nhận định thấy so sánh lực lượng giữa ta và địch có hướng có lợi cho ta, Hội nghị đã ra nghị quyết về một hệ thống chính sách ruộng đất của Đảng trong kháng chiến gồm một số điểm như:
“1. Triệt để thực hiện giảm 25% địa tô.
2.Bài trừ những thứ địa tô phụ thuộc như tiền trình gặt, tiền đầu trâu
3. Bỏ chế đọ quá điền.
4. Đem ruộng đất và tài sản của bọn phản quốc tạm cấp cho dân nghèo.
5. Chhia lại ruộng đất công cho hợp lý và công bàng hơn.
6. Đem ruộng đất của đồn điền chia cho dân cày nghèo, ....”[11; Tr 67].
Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vấn đề ruộng đất trong điều kiện của cuộc kháng chiến, nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp. Việc giảm tô 25% được côi là nhiệm vụ hàng đầu, tiếp đó là việc chia lại ruộng đất công cho hợp lý, tạm cấp ruộng đất vắng chủ,...
Tháng 8 – 1948, Trung ương Đảng triệu tập hội nghị cán bộ lần thứ V. Hội nghị đánh dấu một bước tiến mới, quan trọng trong thời kỳ kháng chiến. Từ những đánh giá rất xác đáng về vấn đề dân cày và địa chủ phong kiến, về bối cảnh và tính chất của cuộc cách mạng dân chủ mới ở Việt Nam, Hội nghị đã nhận định: Muốn xóa bỏ những tàn tích phong kiến, phát triển nông nghiệp, phải cải cách ruộng đất. Song, xuát phát từ việc phân tích đặc điểm và hoàn cảnh nước ta lúc này, Hội nghị đã chủ trương: “Dùng phương pháp cải cách dần dần mà thu hẹp phạm vi bóc lột của địa chủ phong kiến bản xứ (ví dụ: giảm tô), đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất (trong phạm vi không có hại cho mặt trận thống nhất chống thục dân Pháp xâm lược). Đó cũng là một cách ta thực hiện cách mạng thổ địa bằng một đường lối riêng biệt”.[8; Tr 3]
Trước yêu cầu bồi dưỡng sức dân để đẩy mạnh cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc, Chính phủ ban Sắc lệnh 78-SL ngày 14-7-1949, Nghị định 130 NV ngày 24-7-1949 của Chính phủ và Thông tư số 50 ngày 15-11-1949 của Liên Bộ Nội Vụ - Tư pháp – Canh nông nêu rõ chính sách giảm tô của Đảng và Chính phủ là:
Giảm và xóa bỏ địa tô chính, tô phụ.
Đối tượng phải giảm tô gồm tất cả những cá nhân hay đoàn thể có ruộng đất cho tá điền lĩnh canh cấy rẽ hay cấy nộp phải nộp tô.
Cách thức giảm: Giảm 25% số địa tô chính thức thu trước Cách mạng tháng Tám và địa tô sau khi đã nộp không quá 1/3 tổng số thu hoạch một vụ chính; Đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cch m7841nh dn t7897c dn ch7911 nhn dn.doc