Ởcác nước như Đài Loan đã thành lập Ngân hàng chuyên cho các DNNVV vay
vốn trực thuộc Chính Phủ. Nhưng tại Việt Nam, chỉcho phép thành lập các ngân hàng
chuyên cho các DNNVV vay vốn trực thuộc các TCTD. Khi thành lập ngân hàng này
sẽcó những điểm lợi sau:
- Do chỉchuyên cho các DNNVV vay vốn nên việc theo dõi, tìm kiếm thông tin,
giải quyết và quản lý món vay có nhiều thuận lợi.
- Các TCTD có điều kiện lựa chọn trong sốnhiều DNNVV đến xin vay những
doanh nghiệp có uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, do đó hạn chếrủi ro.
-50-
- Có điều kiện để đào tạo cán bộchuyên sâu vềhoạt động của DNNVV, từng
bước giải quyết món vay hiệu quảhơn, giảm thiểu rủi ro.
Một ví dụcụthểlà Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Việt Nam đã có chiến lược
mạnh dạn, đó là thành lập tại các Tỉnh, Thành lớn các chi nhánh chuyên phục vụkhách
hàng là DNNVV. Hiện nay, đã thành lập Chi nhánh Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Hà
Thành trực thuộc Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Việt Nam, thành lập từ9/2003. Qua
thời gian hoạt động cho thấy, tốc độtăng trưởng các chỉtiêu vềtín dụng tăng cao,
khách hàng là DNNVV mới ngày càng đông và đáp ứng được nhu cầu vay vốn của
khách hàng.
59 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1060 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tình hình đầu tư tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãm để quảng bá, giới thiệu
sản phẩm, tìm hiểu thị trường
- Trợ giúp kinh phí đào tạo nguồn nhân lực, giúp cho các DNNVV có nguồn
nhân lực trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu sản xuất.
3.1.2. Định hướng của Tỉnh Đồng Nai về phát triển DNNVV nhằm góp phần
thúc đầy quá trình CNH – HĐH:
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế trên địa bàn và vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của các DNNVV vào việc phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao
đời sống của nhân dân, thời gian vừa qua, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã xây dựng
các định hướng cơ bản nhằm tạo điều kiện thúc đẩy phát triển DNNVV từ nay đến năm
2005 và 2010 là:
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các DNNVV ngành công nghiệp chế biến
nông sản, vì đây là thế mạnh của tỉnh. Tạo điều kiện để các DNNVV phát triển sản
xuất ổn định, lâu dài, vừa nâng cao được giá trị nông sản. Vận động tư nhân đầu tư lâu
dài theo hướng: chuyển từ ngành thương mại, dịch vụ sang ngành công nghiệp, nhất là
-44-
ngành công nghiệp chế biến nông sản, chuyển dần từ địa bàn đô thị sang địa bàn nông
thôn, gần với nguồn nguyên liệu, tận dụng triệt để lao động nông thôn, tạo điều kiện
thay đổi bộ mặt nông thôn mới, nông thôn thời kỳ CNH – HĐH.
- Xây dựng chính sách khuyến khích đối với các ngành nghề truyền thống cần
phát triển, xác định các địa bàn cần khuyến khích đầu tư.
- Xây dựng các cụm công nghiệp địa phương, ngân sách địa phương hỗ trợ một
phần vốn đầu tư ban đầu và xây dựng cơ chế thu hồi vốn thích hợp nhằm tạo điều kiện
cho các DNNVV vào sản xuất tại các cụm công nghiệp tập trung, tạo cho công tác
quản lý doanh nghiệp được thuận lợi, tiết kiệm một phần chi phí đầu tư cơ sở hạ tầng
cho từng doanh nghiệp, đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Xây dựng và ban hành tiêu chí làng nghề, công nhận các làng nghề làm căn cứ
đầu tư và thực hiện các chính sách hỗ trợ khuyến khích đối với làng nghề.
- Hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn lao động, kể cả cán bộ quản lý doanh nghiệp.
- Triển khai chuẩn bị thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNNVV, theo
đó đã chỉ đạo các sở, ngành liên quan có trách nhiệm phối hợp xây dựng đề án, thành
lập Ban trù bị…để Quỹ bảo lãnh tín dụng sớm hình thành tại tỉnh Đồng Nai.
- Định hướng đóng góp của DNNVV đối với nền kinh tế Tỉnh Đồng Nai đến
năm 2005:
Tỷ trọng GDP của DNNVV chiếm khoảng 40 - 41%.
Các khoảng đóng góp ngân sách nhà nước chiếm 15 - 16% trong tổng thu ngân
sách.
Kim ngạch xuất khẩu chiếm 25-30% kim ngạch xuất khẩu địa phương.
- Định hướng đóng góp của DNNVV đến 2010:
Tỷ trọng GDP của DNNVV chiếm khoảng 41-42%.
Các khoảng đóng góp ngân sách nhà nước chiếm 18-20% trong tổng thu ngân
sách.
Kim ngạch xuất khẩu chiếm 35-40% kim ngạch xuất khẩu địa phương.
-45-
3.2 Các giải pháp TDNH đối với việc phát triển DNNVV góp phần thúc đẩy quá
trình CNH – HĐH ở Đồng Nai:
Như đã phân tích trên đây, TDNH đóng vai trò quan trọng trong quá trình
CNH – HĐH nền kinh tế. Để các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai có điều kiện tiếp cận vốn tín dụng nhằm đổi mới máy móc thiết bị, công
nghệ và tăng quy mô vốn, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy
quá trình CNH – HĐH, cần có những giải pháp sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan quản lý, bao gồm Chính phủ, NHNN, Uỷ
ban nhân dân Tỉnh và các Ban, Ngành ở Trung ương và địa phương:
3.2.1.1. Nghiên cứu, xem xét các điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng
DNNVV :
Để trợ giúp các DNNVV vay vốn, Chính phủ đã ban hành Quyết định
193/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 về quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ
bảo lãnh tín dụng DNNVV, theo đó các DNNVV có dự án đầu tư, phương án kinh
doanh khả thi và có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay, có tổng giá trị tài sản thế
chấp, cầm cố tại TCTD theo quy định của pháp luật tối thiểu bằng 30% giá trị khoản
vay. Không có nợ đọng thuế, nợ quá hạn tại các TCTD hoặc các TCKT khác. Nếu
DNNVV hội đủ các điều kiện trên thì Quỹ bảo lãnh sẽ cấp bảo lãnh tín dụng tối đa
bằng 80% giá trị chênh lệch giữa khoản vay và giá trị tài sản thế chấp tại TCTD. Mức
phí bảo lãnh tín dụng là 0.8% /năm tính trên số tiền được bảo lãnh và mức phí thẩm
định hồ sơ bảo lãnh mỗi lần là 50.000 VND.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, để giải quyết vấn đề thiếu tài sản bảo đảm cho
DNNVV vay vốn tại các TCTD, các DNNVV có thể đề nghị Quỹ bảo lãnh tín dụng tại
địa phương bảo lãnh vay vốn. Tuy nhiên, hiện nay tiến trình thành lập Quỹ còn quá
-46-
chậm. Một trong những lý do quan trọng đó là nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh.
Theo quy định, một trong số các điều kiện để được thành lập Quỹ là có đủ mức vốn
điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng và tại Điều 3 Nghị định 193 quy định: Vốn của ngân sách
cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương tối đa không quá 30% vốn điều lệ tối thiểu
của Quỹ. Hiện nay, quy định Ngân sách Tỉnh, Thành phố phải tham gia tối thiểu 30%
vốn điều lệ đã được Chính phủ bãi bỏ bằng Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg của
Chính phủ ngày 25/6/2004. Tuy nhiên, đối với Tỉnh Đồng Nai, việc bãi bỏ quy định
trên không ảnh hưởng lớn đến tiến trình thành lập quỹ, chỉ có ảnh hưởng đối với những
tỉnh có quy mô ngân sách nhỏ.
Vậy, tại Đồng Nai hiện nay, khó khăn lớn nhất và mang tính quyết định là việc
tham gia góp vốn của các TCTD trên địa bàn. Tại cuộc họp gần đây nhất ngày
24/12/2004 do NHNN tỉnh Đồng Nai chủ trì, tham dự có các Giám đốc các TCTD trên
địa bàn, kết quả như sau: Các TCTD đã nhất trí cao với chủ trương trên và đã có báo
cáo xin ý kiến với Ban Tổng Giám đốc các TCTD cấp trên và đã được trả lời cụ thể
như sau: Ngân hàng Công thương Việt Nam không đồng ý cho Ngân hàng Công
Thương Đồng Nai góp vốn, các TCTD khác đồng ý góp vốn nhưng kèm theo đó là các
điều kiện như: Tham gia quản lý điều hành, hưởng lãi từ vốn góp, bổ sung thêm quy
định về xử lý rủi ro…Chi nhánh Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Liên doanh Việt
Thái chưa được Hội đồng quản trị thông qua, còn NHTM cổ phần nông thôn Đại á, do
trụ sở chính đặt tại Đồng Nai nên việc quyết định nhanh chóng hơn, đã đồng ý mức
góp vốn 1 tỷ đồng. Nguồn vốn từ ngân sách tỉnh đã chuyển đủ 50% vốn điều lệ Quỹ,
tương ứng 15 tỷ vào Quỹ bảo lãnh.
Từ những khó khăn trên cho thấy, việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng tại địa
phương sẽ rất khó khăn do phần vốn còn lại phải chờ các TCTD góp vốn. Các TCTD
lại đưa ra những yêu cầu khi tham gia góp vốn. Vì vậy, để Quỹ bảo lãnh tín dụng sớm
thành lập và đi vào hoạt động, Chính phủ, Bộ Tài Chính, NHNN phải xem xét, sửa đổi
cho phù hợp, nhất là quy định vốn điều lệ tối thiểu 30 tỷ đồng.
-47-
3.2.1.2. Mở chi nhánh công ty cho thuê tài chính trực thuộc các TCTD tại Đồng
Nai:
Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê
Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản
cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
được hai bên thỏa thuận. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại
tài sản hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng cho
thuê tài chính.
Những thuận lợi mà hoạt động cho thuê tài chính mang lại là:
Đối với Doanh nghiệp thuê tài chính:
Doanh nghiệp không phải bỏ khoản tiền lớn ngay để mua sắm động sản, có thể
nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, tận dụng được cơ hội kinh doanh do tài sản
thuê được khấu hao nhanh, giảm thuế lợi tức do tiền thuê được hạch toán thẳng vào chi
phí.
Mặc dù doanh nghiệp không bỏ tiền ra để mua động sản nhưng doanh nghiệp có
quyền chọn lựa, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả,
thời gian giao nhận, lắp đặt, bảo hành đúng loại tài sản mà họ có nhu cầu sử dụng.
Không quan tâm đến việc có tài sản đảm bảo tiền vay hay không khi thuê tài
chính, mà đây là vấn đề khó khăn nhất hiện nay khi vay vốn tại các ngân hàng thương
mại.
Doanh nghiệp có thể tăng khả năng sử dụng vốn tự có bằng hình thức tái thuê,
có nghĩa là người thuê bán lại tài sản của họ cho bên cho thuê, đồng thời ký hợp đồng
-48-
mua lại chính tài sản đã bán nhằm giải phóng vốn đầu tư khỏi tài sản cố định và có
thêm vốn lưu động để hoạt đông…
Đối với các TCTD:
Mở rộng tín dụng là yêu cầu tất yếu của sự phát triển các TCTD. Trong khi các
DNNVV với số lượng rất lớn, thị trường đầy tiềm năng, nhu cầu trang bị máy móc
thiết bị, phương tiện vận tải và các động sản khác đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn.
Song, do các DNNVV không hội đủ các điều kiện vay vốn, nhất là thiếu tài sản đảm
bảo nên việc mở rộng tín dụng qua hình thức cho vay thông thường khó thực hiện
được.
Khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính, các công ty cho thuê tài chính sẽ có
những mặt lợi sau:
+ Duy trì được tốc độ tăng trưởng tín dụng thông qua các đơn vị cho thuê tài
chính trực thuộc.
+ Đảm bảo độ an toàn cao khi thực hiện cho thuê tài chính vì trong quá trình
cho thuê, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê.
+ Do quá trình hoạt động và bề dày kinh nghiệm, các TCTD có mối quan hệ
rộng lớn với khách hàng, nên có điều kiện để tư vấn cho khách hàng về những vấn đề
có liên quan đến cho thuê tài chính.
+ Có điều kiện thực hiện các nghiệp vụ uỷ thác, quản lý tài sản và bảo lãnh liên
quan đến hoạt động cho thuê tài chính.
Đối với nền kinh tế:
Do thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính, các DNNVV có điều kiện trang bị
mới máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển, đóng góp tương xứng vào sự phát triển chung của nền kinh tế, tạo được nhiều
việc làm, tăng xuất khẩu, thu lượng ngoại tệ lớn và đặc biệt là thúc đẩy quá trình CNH
– HĐH nền kinh tế cả nước mà Nhà nước ta đang cố gắng thực hiện.
-49-
Tuy nhiên, với những tiện ích phân tích ở trên, hoạt động cho thuê tài chính hiện
nay ở nước ta vẫn còn một số khó khăn, đó là:
- Đối tượng cho thuê tài chính theo Nghị định 16/2001/NĐ-CP thì chỉ có máy
móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác. Nhưng thực tế hiện nay,
các DNNVV đang có nhu cầu thuê rất lớn các tài sản là bất động sản như nhà xưởng,
mặt bằng sản xuất…
- Hiện tại các công ty tài chính trực thuộc các NHTM chỉ mới có trụ sở ở các
thành phố lớn như Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó, lượng
khách hàng là các DNNVV lại phân bố rộng khắp cả nước, ví dụ tại Đồng Nai, Đà
Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương…đây là hạn chế lớn về mạng lưới hoạt động, hạn chế tốc
độ phát triển của hoạt động cho thuê tài chính.
- Hoạt động cho thuê tài chính tương đối mới đối với các doanh nghiệp ở Việt
Nam, đặc biệt là các DNNVV chưa có thói quen thuê tài sản để mở rộng sản xuất kinh
doanh, nên hạn chế khả năng mở rộng hoạt động của các công ty cho thuê tài chính.
Như vậy, hoạt động cho thuê tài chính rất phù hợp với loại hình DNNVV, là
đối tượng có nhu cầu vốn trung, dài hạn rất cao để mua sắm máy móc, thiết bị, đổi mới
công nghệ.
3.2.1.3. Các TCTD nghiên cứu thành lập Chi nhánh ngân hàng tại Đồng Nai
chuyên cho các DNNVV vay vốn.
Ở các nước như Đài Loan đã thành lập Ngân hàng chuyên cho các DNNVV vay
vốn trực thuộc Chính Phủ. Nhưng tại Việt Nam, chỉ cho phép thành lập các ngân hàng
chuyên cho các DNNVV vay vốn trực thuộc các TCTD. Khi thành lập ngân hàng này
sẽ có những điểm lợi sau:
- Do chỉ chuyên cho các DNNVV vay vốn nên việc theo dõi, tìm kiếm thông tin,
giải quyết và quản lý món vay có nhiều thuận lợi.
- Các TCTD có điều kiện lựa chọn trong số nhiều DNNVV đến xin vay những
doanh nghiệp có uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, do đó hạn chế rủi ro.
-50-
- Có điều kiện để đào tạo cán bộ chuyên sâu về hoạt động của DNNVV, từng
bước giải quyết món vay hiệu quả hơn, giảm thiểu rủi ro.
Một ví dụ cụ thể là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã có chiến lược
mạnh dạn, đó là thành lập tại các Tỉnh, Thành lớn các chi nhánh chuyên phục vụ khách
hàng là DNNVV. Hiện nay, đã thành lập Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà
Thành trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thành lập từ 9/2003. Qua
thời gian hoạt động cho thấy, tốc độ tăng trưởng các chỉ tiêu về tín dụng tăng cao,
khách hàng là DNNVV mới ngày càng đông và đáp ứng được nhu cầu vay vốn của
khách hàng.
3.2.1.4. NHNN tỉnh làm đầu mối tổ chức hội thảo về vấn đề vay vốn của các
DNNVV:
Đến nay, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chưa có một TCTD nào tổ chức hội thảo
chuyên đề về vấn đề vay vốn của DNNVV. Vì vậy, trong thời gian tới, NHNN tỉnh
Đồng Nai nên đứng ra làm đầu mối tổ chức hội thảo này, đối tượng chính là các
DNNVV, đồng thời mời các TCTD trên địa bàn tham gia để giới thiệu sản phẩm tín
dụng và các vấn đề liên quan đến việc vay vốn, qua đó tạo điều kiện cho các DNNVV
có thể tiếp cận được cách thức, điều kiện cần có khi vay vốn. Khi biết được yêu cầu
của các TCTD, các DNNVV sẽ có bước chuẩn bị tốt hơn, không còn e ngại tiếp xúc
khi vay vốn.
3.2.2. Giải pháp đối với các TCTD trên địa bàn:
Các TCTD trên địa bàn cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng. Thực tế, thị
phần cấp tín dụng cho các DNNVV đầy tiềm năng nhưng các TCTD chưa có biện pháp
khả thi để khai thác tốt lượng khách hàng này. Vì vậy, để thâm nhập thị trường tín
dụng khu vực DNNVV một cách hiệu quả, các TCTD cần có chính sách và chiến lược
cụ thể để có thể chủ động triển khai thực hiện:
3.2.2.1. Cần có chiến lược huy động vốn hiệu quả và có chất lượng:
-51-
Như phân tích ở Chương 2, nguồn vốn huy động tại chỗ trên địa bàn không đáp
ứng đủ nhu cầu vay vốn của nền kinh tế nói chung, trong đó có DNNVV. Tính đến
cuối năm 2004, vốn huy động tại chỗ chỉ đáp ứng khoảng 74% so với dư nợ nền kinh
tế, phải dùng vốn điều chuyển từ TCTD ở Trung ương với chi phí cao và dễ bị động.
Điều đó cho thấy thực trạng về nguồn vốn của các TCTD trên địa bàn đang gặp khó
khăn. Mặc dù thời gian vừa qua, các TCTD đã rất năng động và tìm mọi biện pháp để
khơi tăng vốn huy động tại chỗ như: Đơn giản hoá thủ tục gửi, rút tiền, có chính sách
ưu đãi lãi suất cho khách hàng có số dư tiền gửi cao, đa dạng hình thức, sản phẩm huy
động vốn như tiết kiệm hưởng lãi bậc thang, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm có thưởng, gửi
tiền một nơi rút ở nhiều nơi…
Ngoài việc gia tăng nguồn vốn như trên, các TCTD trên địa bàn cần nâng cao
hơn nữa chất lượng vốn huy động, thể hiện qua: Chi phí huy động thấp, cơ cấu huy
động hợp lý để đáp ứng yêu cầu hoạt động tín dụng cho từng loại hình cho vay.
Các TCTD cần có chiến lược huy động vốn hiệu quả. Hàng năm, tuỳ thuộc vào
từng thời điểm khác nhau, dự báo tình hình nguồn vốn trong thời gian tới để chuẩn bị
đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp.
3.2.2.2. Từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng nâng dần tỷ trọng
cho vay đối tượng khách hàng là các DNNVV, góp phần thúc đẩy quá trình
CNH – HĐH ở tỉnh Đồng nai:
Thực tế hoạt động tín dụng trong thời gian qua, các TCTD trên địa bàn Tỉnh
chưa quan tâm đúng mức đến việc đầu tư tín dụng đối với các DNNVV, thể hiện qua tỷ
trọng dư nợ tín dụng thấp, chỉ vào khoảng 13-14% tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn.
Hơn nữa, khi tập trung đầu tư vốn vào một số khách hàng lớn, nếu rủi ro xảy ra, hậu
quả sẽ rất nghiêm trọng, ví dụ các vụ án lớn như Epco Minh Phụng, Công ty Huy
Hoàng…Vì vậy, các TCTD cần thay đổi nhận thức nhằm chuyển dịch tỷ trọng cho vay
sang đối tượng các DNNVV, sẽ phân tán được rủi ro, mở rộng nhiều đối tượng khách
hàng, từ đó mở rộng tín dụng.
-52-
3.2.2.3. Nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và gắn trách
nhiệm đi kèm quyền lợi cho CBTD:
Trên địa bàn Đồng Nai, tình hình cạnh tranh về hoạt động ngân hàng ngày càng
trở nên gay gắt, đòi hỏi các TCTD cần chủ động hơn trong việc thu hút khách hàng để
tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Để thực hiện được điều này, yêu cầu cán bộ ngân hàng mà
trực tiếp nhất là đội ngũ CBTD có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt có
tâm huyết với ngành.
Trong khi tìm kiếm các cơ hội đầu tư tín dụng, đòi hỏi CBTD phải có khả năng
thẩm định các điều kiện vay vốn của khách hàng, đặc biệt là dự án đầu tư hoặc phương
án sản xuất kinh doanh. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm sẵn có, CBTD phải luôn học hỏi,
nghiên cứu, cập nhật kiến thức, thông tin mới về thị trường, về khách hàng…để có thể
giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh, nhạy, phù hợp và kịp thời cho khách hàng,
không bỏ nhỡ cơ hội đầu tư mà còn hạn chế rủi ro cho TCTD và cho chính mình.
Chúng ta phải thừa nhận rằng, trong các hoạt động ngân hàng, hoạt động tín
dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất mà người trực tiếp thực hiện là CBTD. Với trách nhiệm
rất nặng nề, cộng với áp lực công việc ngày càng cao đòi hỏi các cấp lãnh đạo các
TCTD cần kịp thời nhận thấy và có những hành động cần thiết, như quan tâm đến
quyền lợi vật chất và tinh thần cho đội ngũ CBTD nhiều hơn nữa. Thực hiện chế độ
khen thưởng kịp thời và đúng lúc, đúng nơi là yếu tố giúp cho CBTD ngày càng hăng
say với ngành, tập trung nghiên cứu và học hỏi và nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác.
3.2.2.4. Xem xét mở rộng cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay:
Theo khoản 16, Nghị định 85/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/10/2002 sửa
đổi, bổ sung Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 28/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các
TCTD, quy định: TCTD xem xét, quyết định việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
-53-
thành từ vốn vay, nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng đủ các
điều kiện sau:
- Đối với khách hàng vay: Một là, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ
trả nợ; Hai là, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy
định của pháp luật; Ba là, có vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư hoặc phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện
pháp cầm cố, thế chấp tối thiểu bằng 15% vốn đầu tư của dự án hoặc phương án đó.
- Đối với tài sản: Một là, tài sản hình thành từ vốn vay dùng làm tài sản bảo đảm
tiền vay phải xác định được quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng; xác định được
giá trị, số lượng và được phép giao dịch. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay là vật
tư, hàng hoá, thì ngoài việc có đủ điều kiện này, TCTD phải có khả năng quản lý, giám
sát tài sản đảm bảo; Hai là, đối với tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm,
thì khách hàng vay phải cam kết mua bảo hiểm trong suốt thời hạn vay vốn khi tài sản
đã được hình thành đưa vào sử dụng.
Nghị định 178/1999/NĐ-CP quy định cho vay với biện pháp bảo đảm bằng tài
sản hình thành từ vốn vay chỉ áp dụng đối với cho vay trung, dài hạn, điều kiện khách
hàng phải có tín nhiệm với các TCTD và có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư
và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp thế chấp, cầm cố tối thiểu 50%
vốn đầu tư của dự án. Nhưng Nghị định 85/2002/NĐ-CP đã mở ra kể cả đối tượng cho
vay ngắn hạn, không cần điều kiện là khách hàng phải có tín nhiệm với các TCTD và
giảm mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng
các biện pháp thế chấp, cầm cố của khách hàng tối thiểu xuống còn 15% vốn đầu tư
của dự án.
Khi xem xét các điều kiện trên, các TCTD phải linh hoạt đối với các báo cáo tài
chính chính của doanh nghiệp, về thẩm định tính khả thi và hiệu quả của dự án hay
phương án sản xuất kinh doanh.
-54-
3.2.2.5. Nâng cao hơn nữa công tác phân tích tài chính DNNVV:
Như những nội dung phân tích về những khó khăn hiện nay đối với cho vay
DNNVV là tình hình báo cáo tài chính chưa lành mạnh và minh bạch. Không nên xem
nặng vấn đề tài sản đảm bảo khi giải quyết món vay, mà phải quan tâm một cách linh
hoạt đến tình hình tài chính và nguồn trả nợ. Nguồn trả nợ của doanh nghiệp dựa vào
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, qua đó, các TCTD có thể phân tích những dòng tiền vào, ra
của doanh nghiệp, từ đó dự đoán khả năng tạo tiền của doanh nghiệp và đây cũng là
nguồn thu của các TCTD trong kỳ kế hoạch.
3.2.2.6. Đa dạng hoá các hình thức cho vay:
Nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của các DNNVV, đặc biệt là nhu cầu vốn trung,
dài hạn các TCTD, ngoài áp dụng các hình thức cho vay thông thường như: Cho vay
từng lần, cho vay hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, nên áp dụng hình thức
cho vay theo hạn mức thấu chi đối với những doanh nghiệp có uy tín và cho vay chiết
khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Không chỉ cho vay chiết khấu giấy tờ có giá do
chính TCTD đó phát hành mà còn chiết khấu cả giấy tờ có giá do các TCTD khác phát
hành.
3.2.2.7. Tổ chức giới thiệu và trả lời trực tiếp trên truyền hình, dành riêng cho
các DNNVV:
Qua kênh này, các TCTD có thể giới thiệu những nội dung về thể lệ, chế độ
hiện hành liên quan đến hoạt động ngân hàng. Các DNNVV có thể gọi điện thoại trực
tiếp đến tổng đài trực tuyến để yêu cầu các chuyên gia ngân hàng giải đáp thắc mắc.
3.2.2.8. Định kỳ hàng tháng, cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho Trung tâm
thông tin phòng ngừa rủi ro tại NHNN kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung, yếu tố thông tin đóng vai trò quan trọng
để các doanh nghiệp xem xét đưa ra các quyết định. Trong lĩnh vực hoạt động ngân
-55-
hàng, do yếu tố nhạy cảm và rủi ro cao, nên các TCTD càng phải quan tâm hơn yếu tố
thông tin về khách hàng. TCTD không chỉ dựa vào thông tin do Trung tâm thông tin và
phòng ngừa rủi ro thuộc NHNN cung cấp mà cần thu thập từ nhiều nguồn khác nhau
như trên thị trường, phương tiện truyền thông, quan hệ bạn bè …để có cơ sở thẩm định
cho vay. Hiện nay, tình hình DNNVV đăng ký kinh doanh ngày càng tăng, trong đó có
không ít “doanh nghiệp ma”, rất khó phát hiện. Vì vậy, việc thu thập đầy đủ thông tin
càng nhiều nguồn khác nhau sẽ càng hạn chế rủi ro cho các TCTD.
3.3.2.9. Cần thay đổi nhận thức về vai trò của DNNVV:
Nhận thức đúng vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế cả nước nói chung,
Đồng Nai nói riêng, để từ đó có những chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các
DNNVV tiếp cận vốn TDNH dễ dàng hơn.
3.2.3. Giải pháp đối với DNNVV.
3.2.3.1. Xem việc công khai tài chính là động lực cho sự phát triển:
Hiện nay, nhiều DNNVV không gửi báo cáo tài chính hoặc gửi chiếu lệ cho các
cơ quan quản lý, do họ chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của báo cáo tài chính, hoặc
sợ lộ bí mật kinh doanh.
Khi doanh nghiệp báo cáo tình hình tài chính không đúng sự thật, cụ thể khai
thấp kết quả kinh doanh để được hưởng lợi từ thuế thu nhập phải nộp, nhưng khi có
nhu cầu về vốn đầu tư thì rất khó khăn. Do đó, các DNNVV cần xem công khai và
minh bạch tình hình tài chính sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn đầu tư từ các
TCTD và các định chế tài chính khác. Quan trọng hơn, là cơ sở để Nhà nước có chính
sách phù hợp đối với việc phát triển từng ngành nghề.
3.2.3.2. Thay đổi tâm lý tự ti trong quan hệ vay vốn các TCTD:
Đa số DNNVV với tâm lý tự ti vì cho rằng qui mô hoạt động sản xuất kinh
doanh vừa và nhỏ sẽ khó được các TCTD giải quyết cho vay, vì vậy thường e ngại khi
tiếp xúc vay vốn tại các TCTD. Điều này đã làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn TDNH
-56-
của các DNNVV. Hơn nữa, Nhà nước ta hiện nay với chủ trương công bằng giữa các
thành phần kinh tế. Vì vậy, các DNNVV cần phải mạnh dạn hơn trong quan hệ vay vốn
tại các TCTD, có như vậy mới có cơ hội tiếp cận nguồn vốn quan trọng này.
3.2.3.3. Cần sự chuẩn bị chu đáo khi tiếp xúc với các TCTD:
Khi tiếp xúc với TCTD, các doanh nghiệp cần tránh những sơ xuất có thể làm
cho đề nghị vay vốn bị từ chối, như thiếu sự chuẩn bị chu đáo về phương án xin vay,
dự án đầu tư, thiếu thông tin, không diễn đạt được mục đích, nhu cầu vay vốn. Điều
này, sẽ gây cho TCTD thiếu sự tin tưởng và nghĩ rằng, doanh nghiệp chưa quan tâm
nhiều đến phương án, dự án vay vốn.
3.2.3.4. Tăng cường củng cố, nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực DNNVV:
Một trong những nguyên nhân khiến việc vay vốn của các DNNVV bị từ chối
đó là trình độ lập các dự án, phương án vay vốn của các doanh nghiệp còn yếu, khả
năng tìm hiểu, nắm bắt vấn đề liên quan chưa sâu, cho nên cần phải xây dựng chiến
lược về đội ngũ nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu công việc.
3.3. Một số kiến nghị:
3.3.1. Đối với Bộ tư pháp:
Đề nghị Bộ tư pháp thành lập chi nhánh đăng ký giao dịch đảm bảo đối với
động sản tại Tỉnh Đồng Nai. Hiện nay, cả nước chỉ có hai cơ quan được phép đăng ký
giao dịch đảm bảo là động sản, bao gồm: Cơ quan đăng ký quốc gia tại Hà Nội và chi
nhánh đăng ký giao dịch đảm bảo tại Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đồng Nai là một Tỉnh công nghiệp, vì vậy, số lượng giao dịch tài sản đảm bảo
l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42864.pdf