Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc được đề cao đến tận mây
xanh, lúc bị vùi dập không thương tiếc. Về chủ quan, có mâu thuẫn trong việc xác định tính giá trị của
Nho học có nguồn gốc từ sự đa dạng phức tạp về các biến thể của Nho học. Về khách quan, mâu thuẫn
này có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng. Đề cao hay hạ thấp thì cũng đều bắt
nguồn từ bản chất hướng đến sự ổn định của Nho học. Để phục vụ cho mục tiêu ổn định do loại hình
văn hóa quy định, triết lý giáo dục truyền thống nhằm đào tạo ra những người thừa hành mà phẩm chất
quan trọng là biết vâng lời chứ không phải là sáng tạo. Nho học với chủ trương coi trọng lễ nghĩa thái
quá chính là công cụ đắc lực để hiện thực hóa triết lý giáo dục này. Muốn thoát khỏi sự trì trệ để phát
triển cần chuyển đổi hệ giá trị theo hướng văn hóa thiên về dương tính, thay đổi triết lý giáo dục từ đào
tạo người thừa hành sang đào tạo người sáng tạo.
7 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 19/05/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
3
TÍNH GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NHO HỌC
TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM
Validity and role of Confucianism in Vietnam’s educational philosophy
GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
TÓM TẮT
Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc được đề cao đến tận mây
xanh, lúc bị vùi dập không thương tiếc. Về chủ quan, có mâu thuẫn trong việc xác định tính giá trị của
Nho học có nguồn gốc từ sự đa dạng phức tạp về các biến thể của Nho học. Về khách quan, mâu thuẫn
này có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng. Đề cao hay hạ thấp thì cũng đều bắt
nguồn từ bản chất hướng đến sự ổn định của Nho học. Để phục vụ cho mục tiêu ổn định do loại hình
văn hóa quy định, triết lý giáo dục truyền thống nhằm đào tạo ra những người thừa hành mà phẩm chất
quan trọng là biết vâng lời chứ không phải là sáng tạo. Nho học với chủ trương coi trọng lễ nghĩa thái
quá chính là công cụ đắc lực để hiện thực hóa triết lý giáo dục này. Muốn thoát khỏi sự trì trệ để phát
triển cần chuyển đổi hệ giá trị theo hướng văn hóa thiên về dương tính, thay đổi triết lý giáo dục từ đào
tạo người thừa hành sang đào tạo người sáng tạo.
Từ khóa: loại hình văn hóa, tính giá trị của Nho học, triết lý giáo dục Việt Nam
ABSTRACT
In its history of existence, Confucianism underwent many vicissitudes, at times praised to the skies, and
at times crushed mercilessly. Subjectively, the inconsistencies in determining the value of Confucianism
originated from the complex diversity of variants of Confucianism. Objectively, this contradiction is
derived from the diversity of the needs of the users. Promoting or disparaging it also has its root in the
stability-oriented nature of Confucianism. To serve the objective of stability, shaped by the cultural
type, the traditional educational philosophy aims to train people with important qualities of obedience
and less creativity. Confucianism which advocates excessive respect for hierarchy and morality is an
effective tool to realize this educational philosophy. It is necessary to convert the value system towards
a positive culture, and change the educational philosophy from training the executive to training the
creator.
Keywords: cultural type, the value of Confucianism, Vietnam's educational philosophy
1. Nguồn gốc sự mâu thuẫn trong
việc xác định tính giá trị của Nho học
Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho
học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc
được đề cao đến tận mây xanh, lúc thì bị
vùi dập không thương tiếc. Sự thăng trầm
này không chỉ diễn ra trên trường chính trị,
mà cả trong giới học thuật. Cuộc tranh
luận về tính giá trị của Nho học (cao hay
thấp, tích cực hay tiêu cực) có vẻ như
không có hồi kết.
Sự mâu thuẫn này có hai nguồn gốc:
Email: ngocthem@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021)
4
chủ quan và khách quan.
1.1. Nguồn gốc chủ quan: sự đa dạng
các biến thể của Nho học
1.1.1. Về chủ quan, sự mâu thuẫn
trong việc xác định tính giá trị của Nho học
có nguồn gốc từ chính sự đa dạng phức tạp
về các biến thể của Nho học.
Tuy gọi là “Nho học”, nhưng nó
không phải là một hệ thống chặt chẽ có sự
thống nhất cao, mà là một thế giới phức
tạp gồm nhiều tiểu hệ với sự khác biệt
theo thời gian, theo nguồn gốc chủ thể và
theo không gian.
1.1.2. Theo thời gian, có ba tiểu hệ lớn
là Khổng Nho, Hán Nho, Tống Nho và một
số tiểu hệ nhỏ như Đường Nho, Minh Nho,
Thanh Nho, v.v. Theo nguồn gốc chủ thể,
trong Khổng Nho có sự tham gia của các tư
tưởng văn hóa phương Nam và phương
Bắc, thể hiện qua hai nguyên tắc cơ bản là
nhân trị và chính danh. Chính vì chứa đựng
những yếu tố phương Nam khác lạ nặng về
tình cảm như vậy nên lúc Khổng Tử còn
sinh thời, nhiều quân vương muốn gặp gỡ
để nghe ông thuyết trình, nhưng nghe xong
thì đều xa lánh. Thời Tần bạo tàn, Khổng
Nho còn bị đàn áp nặng nề. Xa lánh và đàn
áp đều do triết lý của Nho gia xa lạ,
phương pháp của Nho gia không phù hợp.
Đến Hán Nho, những tư tưởng dân chủ của
văn hóa phương Nam bị loại bỏ, thay vào
đó là sự bổ sung tư tưởng Pháp gia và được
mềm hóa bằng nguyên tắc lễ trị. Đến Tống
Nho, có sự bổ sung thêm tư tưởng Phật học
và Đạo học qua cách lý giải của Chu Hy.
Nhờ được điều chỉnh thích hợp như vậy mà
Hán Nho, Tống Nho được đề cao. Cái Nho
học được đề cao này đã khác xa so với Nho
học tiên Tần (Trần Ngọc Thêm, 1996,
tr.504-515). Từ Nho học và Nho gia, nó đã
được thiêng liêng hóa, được chính quyền
tôn sùng để trở thành Nho giáo – một tôn
giáo theo đúng nghĩa với đầy đủ kinh kệ
(Ngũ kinh), giáo chủ (Thánh Khổng Tử),
giáo đường (Văn miếu) và đội ngũ tăng lữ
hùng hậu (vua quan).
1.1.3. Ngoài ra, theo không gian, tư
tưởng Nho học Trung Quốc khi đi vào Việt
Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, đều được biến
đổi phù hợp với truyền thống văn hóa và
nhu cầu từng giai đoạn lịch sử của mỗi
quốc gia, tạo nên các biến thể Việt Nho,
Hàn Nho, Nhật Nho. Du nhập vào ba quốc
gia này, mỗi quốc gia có thể đề cao một
khía cạnh khác nhau, tùy theo đặc trưng
văn hóa của mình.
Do tính đa dạng phức tạp như vậy, cho
nên khi xác định tính giá trị của Nho học,
không những khó đạt được sự thống nhất
mà còn có thể dẫn đến những quan điểm
mâu thuẫn đôi khi trái ngược.
1.2. Nguồn gốc khách quan: sự đa
dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng
Nho học
1.2.1. Về khách quan, sự mâu thuẫn
trong việc xác định tính giá trị của Nho học
có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu
của đối tượng sử dụng.
Tuy là một thế giới phức tạp gồm
nhiều tiểu hệ, nhưng bao trùm lên tất cả, có
thể nói Nho học có chung bản chất là
hướng đến sự ổn định. Ngay cả khi từ phạm
vi “quốc gia” mở rộng ra “thiên hạ” thì mục
tiêu của việc mở rộng vẫn là quốc gia phải
được “trị” và thiên hạ phải được “bình”.
Bởi vậy mà ở trong vùng văn hóa
Đông Á, những thời đại nào, những đối
tượng sử dụng nào đã giành được chính
quyền và muốn ổn định, muốn giữ yên ngai
vàng, duy trì sự thống trị thì thường đều đề
cao Nho học. Mà trong lịch sử Đông Á thì
loại đối tượng này chiếm đa số.
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
1.2.2. Phủ định Nho học vì lý do khách
quan chỉ có một trường hợp là khi người ta
có nhu cầu phá bỏ sự ổn định truyền thống,
cần làm cách mạng để thay đổi xã hội. Ở
Trung Quốc việc này xảy ra hai lần.
Lần thứ nhất là cuộc “cách mạng văn
hóa” đầu thế kỷ XX dưới ảnh hưởng của
phong trào “Ngũ Tứ” với lãnh tụ là Lỗ
Tấn. Tháng 4/1918, ông công bố tiểu
thuyết “Nhật ký người điên” với câu nói
gây ấn tượng nhất là: “Lịch sử... trang nào
cũng có mấy chữ “nhân nghĩa đạo đức”...
cầm đọc kỹ... mới thấy từ đầu chí cuối, ở
giữa các hàng, là ba chữ ăn thịt người”.
Lên án tư tưởng Khổng-Mạnh là lễ giáo
“ăn thịt người” thì đúng là không thể nặng
hơn, nhưng đó là cách lấy văn chương làm
vũ khí, nói quá lên để đạp đổ cái cũ nhằm
kêu gọi quần chúng làm cách mạng; nó
không thể được đánh giá theo kiểu một
công trình khoa học rằng “Những níu kéo,
cản trở của Nho giáo trong xã hội hiện đại
được phân tích, phải nói là, khó có thể sâu
sắc hơn” (Hồ Sĩ Quý, 2009, tr.49).
Lần thứ hai là cuộc “cách mạng văn
hóa” do Mao Trạch Đông cầm đầu, mà một
trong những nội dung cơ bản là “Phê Lâm
đấu Khổng” với lý do Khổng giáo là thế lực
phong kiến bảo thủ, triệt tiêu sự tiến bộ,
khiến dân tộc Trung Hoa rơi vào trì trệ suốt
hai ngàn năm. Nằm sâu xa bên trong là mục
tiêu của Mao Trạch Đông muốn giành lại
địa vị bị lung lay sau hàng loạt sai lầm
trong đường lối quản lý đất nước vào cuối
những năm 1950, đầu những năm 1960.
2. Vai trò của Nho học, văn hóa và
triết lý giáo dục trong sự phát triển
2.1. Nho học hay là văn hóa?
2.1.1. Trong lịch sử cận hiện đại, Việt
Nam đã hai lần đã bỏ lỡ cơ hội canh tân đất
nước. Lần thứ nhất là vào thời nhà Nguyễn,
lần thứ hai là vào đầu thời kỳ Đổi mới gần
đây. Có ý kiến cho rằng Nho học với tính
bảo thủ, hướng đến sự ổn định là nguyên
nhân dẫn đến bi kịch hai lần “bỏ lỡ cơ hội”
này. Chúng tôi cho là không phải. Có thể
nêu ra ba câu hỏi để phản bác:
Thứ nhất, cùng chịu ảnh hưởng của
Nho học, tại sao trong khi Việt Nam trên
một lần bỏ lỡ cơ hội, thì Nhật Bản lại canh
tân được sớm thế?
Thứ hai, tại sao ở chính cái nôi của
Nho học, người Trung Quốc cũng đã tiến
hành những cải cách mạnh mẽ từ cuối
đời Thanh?
Thứ ba, tại sao trên cùng một bán đảo
mà trong khi Hàn Quốc ở phía Nam tiếp
tục bảo tồn các di sản Nho học thì đất nước
phát triển rực rỡ, nhân dân hạnh phúc; còn
Triều Tiên ở phía Bắc từ bỏ Nho học thì
lạc hậu, đói nghèo?
2.1.2. Như vậy, do mang bản chất
hướng đến sự ổn định, Nho học có thể góp
phần gây nên sự trì trệ, nhưng nó không
phải là nguyên nhân chính. Trì trệ hay phát
triển, nguyên nhân chính nằm ở loại hình
văn hóa. Xét theo không gian, phương Tây
thuộc loại hình văn hóa thiên về dương tính,
Đông Nam Á thuộc loại hình văn hóa thiên
về âm tính, còn Đông Bắc Á thuộc loại
hình văn hóa trung gian trọng thế tục (khác
với Tây Nam Á thuộc loại hình văn hóa
trung gian trọng tâm linh) (Trần Ngọc
Thêm, 2013, tr.85-90; 2016, tr.103-116).
Phương Tây thuộc loại hình văn hóa
thiên về dương tính, nên sự thay đổi giá trị
trong lịch sử diễn ra khá thường xuyên. Từ
thế kỷ XV trở lại đây, mọi sự biến động hệ
giá trị đều khởi đầu từ phương Tây hoặc là
hậu quả của các sự kiện xảy ra ở phương
Tây: các cuộc phát kiến lớn về địa lý vào
cuối thế kỷ XV; những thành tựu về văn
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021)
6
hóa và khoa học – giáo dục thời Phục
hưng và Khai sáng; các cuộc cách mạng
công nghiệp, cách mạng xã hội và sự hình
thành chủ nghĩa tư bản phương Tây; sự
phát triển của chủ nghĩa thực dân và chủ
nghĩa đế quốc; sự ra đời của phong trào
cộng sản và sự đối đầu giữa hai phe;
những thành tựu về viễn thông và công
nghệ tin học; sự sụp đổ của phe xã hội chủ
nghĩa và quá trình toàn cầu hoá, v.v.
Phương Tây thay đổi trước, thay đổi một
cách thành công, và kéo theo sự thay đổi
của phần thế giới còn lại. Dễ hiểu là trong
quá trình thay đổi, phần thế giới còn lại sẽ
lấy phương Tây làm hình mẫu.
Đông Bắc Á thuộc loại hình văn hóa
trung gian trọng thế tục, nên tuy có biến
động khá mạnh, nhưng nhìn chung là thuận
lợi và nhẹ nhàng. Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan chuyển đổi sớm và rất thành
công chính là nhờ tính trung gian trọng thế
tục này. Do có phần lớn dân số là người
gốc Hoa nên Singapore thực chất là một
quốc gia Đông Bắc Á ở Đông Nam Á. Loại
hình văn hóa chính là khái niệm “cần” và
“đủ” cho việc lý giải sự thành công của
Đông Bắc Á (Trần Ngọc Thêm, 2013,
tr.331-341).
Trong khi đó thì Đông Nam Á, do
mang bản chất âm tính (trái ngược hẳn với
phương Tây), nên hệ giá trị truyền thống có
độ ổn định rất cao. Bởi vậy, đến lúc tiếp
xúc giao lưu với phương Tây và hội nhập
quốc tế, đây là nơi hệ giá trị có biến động
mạnh nhất và trong quá trình biến đổi gặp
khó khăn nhiều nhất.
2.1.3. Bên cạnh sự khác biệt về loại
hình văn hóa, sự khác biệt về cách thức
quản lý và tổ chức xã hội là nguyên nhân
thứ hai.
Văn hóa Việt Nam do âm tính, lấy ổn
định làm đầu nên bất kỳ ai, mỗi khi đạt đến
được một thành công nào đó, một sự ổn
định nào đó thì đều chỉ muốn “dĩ hòa vi
quý” để giữ lấy sự ổn định ấy, không muốn
tiếp tục đổi mới để khỏi phải mạo hiểm hy
sinh thành quả đã đạt được của mình.
Đây chính là lý do giải thích vì sao
Nguyễn Ánh khi còn phải chống lại Tây
Sơn thì hăng hái mở cửa, tích cực hướng
về phương Tây, còn khi có được đất nước
trong tay, trở thành Gia Long thì nhanh
chóng chuyển sang chính sách ngược lại là
bế quan tỏa cảng, xa lánh phương Tây, trở
về lấy Nho giáo làm chỗ dựa. Sự chi phối
của cách sống này đã dẫn đến việc Vua Gia
Long quyết định sẽ truyền ngôi cho con
thứ là Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng),
người ra sức đề cao Nho giáo và ra mặt
chống lại phương Tây để giữ ổn định, chứ
không phải cho dòng đích là Nguyễn Phúc Mỹ
Đường – con trai cả của hoàng tử Cảnh, người
chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây.
Những người có tư tưởng đổi mới,
thân phương Tây đều bị thất sủng: bản
thân Hoàng tử Cảnh được công bố là chết
vì bệnh đậu mùa, nhưng theo các thừa sai
trong triều đình (trong báo cáo về Hội
truyền giáo Paris) thì thực chất là ông bị
đầu độc; hai Tổng trấn Nguyễn Văn Thành
và Lê Văn Duyệt từng ủng hộ Nguyễn
Phúc Mỹ Đường thì một bị bức tử, một bị
phá hoại lăng mộ sau khi mất. Bản
thân Nguyễn Phúc Mỹ Đường bị vu oan là
thông dâm với mẹ và hai mẹ con bị trói
dìm nước cho đến chết.
Triều đình Minh Mạng, sau đó là Tự
Đức, với những quan văn mang nặng tư
tưởng Tống Nho luôn khăng khăng bài
xích mọi ý tưởng Âu hóa và chống đối
quyết liệt mọi sáng kiến cải cách. Hệ quả
là, những đề xuất cải cách toàn diện, khoa
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
học và tiến bộ (như của Nguyễn Trường
Tộ) đã không được tiếp thu.
2.2. Văn hóa và triết lý giáo dục
2.2.1. Văn hóa Việt Nam trồng lúa
nước mang bản chất trọng âm, hướng đến
ổn định, sinh ra tính cộng đồng làng xã,
nên nền giáo dục Việt Nam truyền thống
có sứ mệnh xây dựng một xã hội ổn định
và mục tiêu đào tạo ra những con người có
những phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu
cầu ổn định này.
Một xã hội ổn định cần những con
người với phẩm chất hàng đầu phải là
ngoan ngoãn, biết vâng lời – đó là những
con người thừa hành, con người công cụ.
Bởi vậy, triết lý giáo dục dân gian Việt
Nam truyền thống có thể tóm gọn trong
bốn chữ cửa miệng mà mọi người Việt
Nam, mọi trường học Việt Nam thường
dùng, là “con ngoan, trò giỏi”. Về câu chữ
thì cụm từ “con ngoan, trò giỏi” có thể xem
là rất tốt, nhưng về nghĩa thì “ngoan”
thường được hiểu là biết vâng lời ( Con
cãi cha mẹ trăm đường con hư), “giỏi”
thường được hiểu là học thuộc bài (câu cửa
miệng cha mẹ hỏi con cái khi đang học
hoặc sau khi học thường là “Con đã học
thuộc bài chưa?”) – thành ngữ “con ngoan,
trò giỏi” chính là biểu hiện của một triết lý
giáo dục hướng đến ổn định. Triết lý giáo
dục này khuyến khích tâm lý háo danh chứ
không phải là hiếu học, hành động làm
theo người khác chứ không phải là bản lĩnh
để suy nghĩ độc lập, sáng tạo; sinh ra thói
cào bằng, không chấp nhận người giỏi hơn
mình, có tư tưởng tiến bộ hơn mình.
2.2.2. Với bản chất văn hóa sẵn có là
ưa ổn định bằng mọi giá, tư tưởng Nho
học hướng đến xây dựng một xã hội ổn
định trở thành công cụ rất thích hợp phục
vụ mục tiêu này. Bên cạnh mặt tốt là đề
cao những giá trị nhân bản của con người,
Nho học quá coi trọng lễ nghĩa; mà lễ
nghĩa thì trói buộc con người, kiềm chế sự
sáng tạo. Không sáng tạo, thì không thể có
phát triển.
Chữ Lễ đòi hỏi sự phục tùng, cho nên
nhiều người nói rất đúng rằng chữ Lễ bắt
đầu ở đâu thì tinh thần tự do sáng tạo và
lòng tự tin kết thúc ở đó. Nhà nghiên cứu
triết học Hà Thúc Minh nhận xét rất đúng
rằng “Lễ là phục tùng, là nói theo, cho nên
không ít học giả cho rằng nền giáo dục chữ
Lễ đào tạo ra đa phần là “nô tài” chứ không
phải là “nhân tài” (Hà Thúc Minh, 2014,
tr.99). Học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét
rằng triết lý của Khổng Tử “rất thích hợp
với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn
loạn nhu nhược để lập lại trật tự... nhưng
đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để
ganh đua trên trường quốc tế thì triết lý đó
là một trở ngại. Ưu điểm và nhược điểm
của Khổng học ở đó” (Nguyễn Hiến Lê,
1995, tr.230).
3. Triết lý nào cho giáo dục Việt Nam?
3.1. Xã hội Việt Nam cần gì?
Xã hội Việt Nam hiện đại cần thoát
khỏi sự trì trệ để phát triển. Muốn thoát khỏi
sự trì trệ thì cần thoát khỏi vòng kim cô của
văn hóa âm tính, thực hiện sự chuyển đổi hệ
giá trị theo hướng thiên về dương tính. Điều
đó có nghĩa là xã hội phải thực sự dân chủ
và hoạt động theo pháp quyền, con người
phải thay chủ nghĩa cộng đồng làng xã bằng
bản lĩnh cá nhân và ý thức công dân (cộng
đồng xã hội). Phải coi trọng sự trung thực
hơn là khôn khéo; ý thức trách nhiệm thay
cho thói dựa dẫm; tinh thần hợp tác vì việc
chung thay cho bệnh phe nhóm, thói sĩ diện;
tính khoa học và sáng tạo thay cho lối làm
việc đối phó, tùy tiện (Trần Ngọc Thêm,
2016, tr.468-497).
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021)
8
Triết lý giáo dục cần phải thay đổi từ
hướng đến ổn định chuyển sang hướng
đến phát triển, từ đào tạo người thừa hành
(“con ngoan trò giỏi” theo nghĩa “biết vâng
lời” và “học thuộc bài”) sang đào tạo con
người của xã hội hiện đại có bản lĩnh và
sáng tạo.
3.2. Vai trò của Nho học trong triết lý
giáo dục Việt Nam mới
3.2.1. Triết lý giáo dục hướng đến sứ
mệnh xây dựng xã hội phát triển và mục
tiêu đào tạo người sáng tạo không phủ
nhận vai trò của tư tưởng Nho học, bởi lẽ
tư tưởng Nho học, như đã nói ở mục 1.1,
rất đa dạng và phong phú. Trong đó, triết lý
giáo dục của Khổng Tử vốn mang đầy đủ
tính dân chủ và khai phóng.
Khổng Tử cho con được can cha, chứ
không bắt con phải tuyệt đối phục tùng cha
mẹ. Ông chủ trương đề cao tự do tư tưởng,
chấp nhận sự khác biệt khi nói: “Người
quân tử hòa hợp mà không nhất thiết phải
cùng quan điểm; kẻ tiểu nhân ngay cả khi
cùng quan điểm mà vẫn không hòa hợp”
(Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng
nhi bất hòa) (Luận ngữ, XIII, 231). Ông
yêu cầu học trò học thì phải suy nghĩ chứ
không được học thuộc lòng: “Học mà
không suy nghĩ thì tăm tối; suy nghĩ mà
không học thì nguy hại” (Học nhi bất tư tắc
võng, tư nhi bất học tắc đãi) (Luận ngữ, II,
15). Ông đòi hỏi ở học trò bản lĩnh và sáng
tạo chứ không phải là sự ngoan ngoãn rập
khuôn: “Ta vén cho một góc rồi mà [kẻ
nào] không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia,
thì ta không dạy cho nữa” (Cử nhất ngung,
bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã)
(Luận Ngữ, VII, 8).
Chỉ có điều những tư tưởng này của
Khổng Tử không phù hợp với mục tiêu đào
tạo con người biết vâng lời để phục vụ cho
văn hóa hướng đến ổn định nên vua các
nước cùng thời không ai dùng Khổng Tử,
khiến thầy trò ông phải lang thang phiêu
bạt khắp nơi như “chó không nhà” (táng
gia cẩu, 丧家狗 ). Những tư tưởng khai
phóng của Khổng Tử cũng chưa bao giờ
được coi trọng, đề cao trong Hán Nho,
Tống Nho. Chúng thường chỉ được nhắc
đến trong các khảo cứu hàn lâm theo kiểu
“khai quật khảo cổ học”. Nói đến Nho giáo
(Hán Nho, Tống Nho) mà trích dẫn những
tư tưởng này của Khổng Tử (như thường
gặp trong không ít sách vở, luận văn, luận
án) là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng.
3.2.2. Bên cạnh mục tiêu tạo nên xã
hội ổn định, Nho học hướng đến xây dựng
con người với những phẩm chất nhân bản
rất cần cho xã hội hiện đại thiên về vật
chất. Như thế, việc khai thác và sử dụng tư
tưởng Nho học cần đi vào chiều sâu, tùy
thuộc vào mục tiêu cụ thể của từng quốc
gia, trong từng giai đoạn.
Những quốc gia đang trong giai đoạn
phát triển quá nhanh, có nguy cơ thiếu ổn
định thì có thể đề cao Nho học; còn những
quốc gia đang trong giai đoạn chuyển đổi
từ ổn định sang phát triển (như Việt Nam)
thì việc đề cao Nho học sẽ làm chậm sự
phát triển. Không nên xem những phong
trào văn hóa đại chúng ồn ào kiểu như hiện
tượng Vu Đan ở Trung Quốc thời gian
2006-2013 (Yu Dan, 2014; Hải Lan, 2012)
là hình mẫu cho mọi quốc gia.
Nghiên cứu được tài trợ bởi Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016-
2020 trong khuôn khổ Đề tài “Triết lý giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại”, mã số
KHGD/16-20.ĐT.011
TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
9
Chú thích:
1Số La-mã là chương, số A-rập sau đó là đoạn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hà Thúc Minh. (2014). Chữ Lễ và giáo dục thời xưa. Tạp chí Khoa học xã hội TP.HCM,
số 6, tr.94-99.
Hải Lan. (2012). Vu Đan đưa “Luận ngữ”, “Trang Tử” đến thế giới hiện đại. Khai thác
từ: vnexpress.net/vu-dan-dua-luan-ngu-trang-tu-den-the-gioi-hien-dai-2390705.html.
Hồ Sĩ Quý. (2009). Về số phận của Nho giáo. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 8,
tr.48-53.
Khổng Tử. (2002). Luận ngữ. Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê. NXB Văn học, 173 trang.
Nguyễn Hiến Lê. (1995). Khổng Tử. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin, 268 trang.
Trần Ngọc Thêm. (1996). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB TP.HCM, 670 trang.
Trần Ngọc Thêm. (2013). Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. TP.HCM: NXB
Văn hóa - Văn nghệ, 675 trang.
Trần Ngọc Thêm. (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường
tới tương lai. TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn nghệ, 589 trang.
Yu Dan. (2014). 文明之旅 [文明之旅 ]于丹 话清明 (20130401). Khai thác từ:
youtube.com/watch?v=a-NAyV_cu8s (CCTV).
Ngày nhận bài: 03/11/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tinh_gia_tri_va_vai_tro_cua_nho_hoc_trong_triet_ly_giao_duc.pdf