Đặt vấn đề: Sử dụng liệu pháp truyền insulin tĩnh mạch giúp kiểm soát đường huyết nhưng cũng làm
tăng nguy cơ hạ đường huyết ở những bệnh nhân nặng điều trị tại khoa Hồi sức tích cực (HSTC).
Mục tiêu: Khảo sát tần suất hạ đường huyết và tỉ lệ đạt đường huyết mục tiêu ở những bệnh nhân kiểm
soát đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch tại khoa HSTC.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, phân tích. Khảo sát những bệnh nhân có sử
dụng insulin truyền tĩnh mạch tại khoa HSTC bệnh viện Chợ Rẫy
5 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 746 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tính an toàn và hiệu quả của liệu pháp truyền insulin đường tĩnh mạch trên bệnh nhân nặng tại khoa hồi sức tích cực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 443
TÍNH AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ CỦA LIỆU PHÁP TRUYỀN INSULIN
ĐƯỜNG TĨNH MẠCH TRÊN BỆNH NHÂN NẶNG
TẠI KHOA HỒI SỨC TÍCH CỰC
Huỳnh Quang Đại*, Hoàng Thu Minh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sử dụng liệu pháp truyền insulin tĩnh mạch giúp kiểm soát đường huyết nhưng cũng làm
tăng nguy cơ hạ đường huyết ở những bệnh nhân nặng điều trị tại khoa Hồi sức tích cực (HSTC).
Mục tiêu: Khảo sát tần suất hạ đường huyết và tỉ lệ đạt đường huyết mục tiêu ở những bệnh nhân kiểm
soát đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch tại khoa HSTC.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, phân tích. Khảo sát những bệnh nhân có sử
dụng insulin truyền tĩnh mạch tại khoa HSTC bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Tổng cộng 416 bệnh nhân‐ngày và 1735 lần kiểm tra đường huyết được khảo sát. Tỉ lệ đạt đường
huyết trong khoảng mục tiêu là 36,4%. Tần suất hạ đường huyết là 14,5%; hạ đường huyết nặng là 7,8%.
Trong suốt thời gian truyền insulin, tỉ lệ bệnh nhân có ít nhất một lần hạ đường huyết là 67,3%, hạ đường
huyết nặng là 25,5%. Biến cố hạ đường huyết không làm tăng tỉ lệ tử vong có ý nghĩa (OR = 1,17; p = 0,783);
tuy nhiên, biến cố hạ đường huyết nặng có liên quan đến tăng tỉ lệ tử vong nằm viện (OR = 6,3; p = 0,016). Các
yếu tố nguy cơ hạ đường huyết bao gồm bệnh nhân đái tháo đường, có bệnh lý tim mạch nền, nhập khoa HSTC
vì bệnh lý nội khoa và có điều trị thay thế thận hoặc thở máy.
Kết luận: Hạ đường huyết là biến chứng thường gặp ở những bệnh nhân kiểm soát đường huyết bằng liệu
pháp truyền insulin tĩnh mạch tại khoa HSTC. Biến cố hạ đường huyết nặng liên quan đến tăng tỉ lệ tử vong
nằm viện.
Từ khóa: kiểm soát đường huyết, hạ đường huyết, truyền insulin tĩnh mạch, hồi sức tích cực
ABSTRACT
THE SAFETY AND EFFICACY OF INTRAVENOUS INSULIN INFUSION THERAPY
FOR MANAGEMENT OF HYPERGLYCEMIA IN CRITICALLY ILL PATIENTS
Huynh Quang Dai, Hoang Thu Minh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 443 ‐ 447
Background: Blood glucose control with intravenous insulin infusion therapy increases the risk of
hypoglycemia.
Objective: Identify the incidence of hypoglycemia and the rate of achieving blood glucose target in critically
ill patients with intravenous insulin infusion therapy.
Method: Cross‐sectional study on the patients with intravenous insulin infusion therapy in Intensive care
unit, Cho Ray hospital.
Results: A total of 416 patient‐days and 1735 BG values were evaluated. The rate of achieving blood glucose
target was 36,4%. The daily incidence of hypoglycemia and severe hypoglycemia were 14.5% and 7.8%,
respectively. Throughout days of insulin infusion, the rate of patients with at least one hypoglycemia and severe
* Bộ Môn Hồi Sức Cấp Cứu Chống Độc – ĐHYD TP.HCM ** Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BS.CKI Huỳnh Quang Đại ĐT: 0908704668 Email: dai.hq@umc.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 444
hypoglycemia were 67.3% and 25.5%, respectively. Hypoglycemia did not increase mortality significantly
(OR=1.17, p=0.783), however severe hypoglycemia related to increasing hospital mortality (OR = 6.3, p = 0.016).
The risk factors of hypoglycemia included diabetes mellitus, cardiovascular diseases, admission ICU for medical
conditions, renal replacement therapy and mechanical ventilation.
Conclusion: Hypoglycemia was a common complication in critically ill patients with intravenous insulin
infusion. Severe hypoglycemia related significantly to increasing hospital mortality.
Keywords: blood glucose control, hypoglycemia, intravenous insulin infusion, critical care, intensive care
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng đường huyết là tình trạng thường gặp
ở bệnh nhân nặng tại khoa HSTC, dù cho bệnh
nhân có tiền căn đái tháo đường hoặc không(11).
Kiểm soát đường huyết giúp giảm tỉ lệ tử vong,
giảm tỉ lệ nhiễm trùng, rút ngắn thời gian điều
trị tại khoa HSTC và thời gian nằm viện, giảm tỉ
lệ suy thận cấp cần điều trị thay thế thận(16). Theo
những đồng thuận và khuyến cáo hiện tại, mục
tiêu kiểm soát đường huyết cho bệnh nhân
HSTC trong khoảng 140–180 mg%(4,8,10). Liệu
pháp truyền insulin tĩnh mạch là phương pháp
kiểm soát đường huyết thường được lựa chọn,
tuy nhiên, song song với hiệu quả kiểm soát
đường huyết là tăng nguy cơ xảy ra biến chứng
hạ đường huyết. Biến chứng này là yếu tố liên
quan độc lập làm tăng gánh nặng bệnh tật và tử
vong(3,6,12).
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Khảo sát tần suất hạ đường huyết và tỉ lệ đạt
đường huyết mục tiêu ở những bệnh nhân kiểm
soát đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch
tại khoa HSTC.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt ngang mô
tả phân tích, khảo sát những bệnh nhân có sử dụng
insulin truyền tĩnh mạch tại khoa HSTC bệnh viện
Chợ Rẫy trong khoảng 6 tháng cuối năm 2011.
Chúng tôi ghi nhận số lần thử đường huyết, chỉ số
đường huyết, liều insulin. Hạ đường huyết được
định nghĩa khi đường huyết <70 mg%, hạ đường
huyết nặng khi đường huyết <40 mg%. Đường
huyết đạt mục tiêu khi đường huyết trong khoảng
140–180 mg%(5,9).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng cộng 55 bệnh nhân, 416 bệnh nhân‐
ngày và 1735 lần kiểm tra đường huyết được
khảo sát và phân tích.
Tuổi trung bình dân số nghiên cứu là 56,9 ±
18,1 tuổi với tỉ lệ nam/nữ tương đương nhau,
trong đó, tỉ lệ bệnh nhân có tiền căn đái tháo
đường chiếm 54,5% (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Giới
Nam 50,9%
Nữ 49,1%
Tuổi trung bình (năm) 56,9 ± 18,1
Nhóm tuổi
<40 tuổi 20%
40 – 60 tuổi 30,9%
>60 tuổi 49,1%
Bệnh lý nền
Đái tháo đường 63,6%
Bệnh tim mạch 34,5%
Nguyên nhân nhập HSTC
Không phẫu thuật 69,1%
Phẫu thuật 30,9%
Điểm SOFA ngày nhập khoa HSTC 6,6 ± 3,5
Điễm APACHE II ngày nhập khoa HSTC 19,1 ± 6,4
Thời gian nằm khoa HSTC (ngày) 13 (6;24)
Thời gian nằm viện (ngày) 24 (12;33)
Tỉ lệ tử vong nằm viện 58,2%
Bệnh nhân nhập khoa HSTC vì bệnh lý nội
khoa chiếm 69,1%, bệnh lý ngoại khoa và đa
chấn thương chiếm 30,9%. Điểm APACHE II
ngày nhập khoa 19,1 ± 6,4, điểm SOFA 6,6 ± 3,5.
Tỉ lệ tử vong nằm viện 58,2% (Bảng 1).
Tại thời điểm nhập khoa HSTC, tỉ lệ bệnh
nhân có suy chức năng thận 38,2%, suy chức
năng gan 17,4%. Bệnh nhân cần thở máy chiếm
74,5% và cần điều trị thay thế thận 36,4%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 445
Giá trị đường huyết trung bình 177,4 ± 40,2.
Tỉ lệ kiểm soát đường huyết trong khoảng mục
tiêu 140 – 180 mg% là 36,4%. Số lần kiểm tra
đường huyết trung bình mỗi ngày là 4,7 ± 0,8 lần
(Bảng 2).
Bảng 2. Kết quả kiểm soát đường huyết
Đường huyết trung bình 177,4 ± 40,2
Tỉ lệ kiểm soát đường huyết 36,4%
Số lần xét nghiệm đường huyết trung bình
mỗi ngày 4,7 ± 0,8
Liều insulin trung bình 1,2 ± 0,4
Trung bình mỗi ngày, tần suất hạ đường
huyết và hạ đường huyết nặng lần lượt là 14,5%
và 7,8%. Hơn nữa, nếu khảo sát trong suốt thời
gian sử dụng insulin truyền tĩnh mạch, tỉ lệ bệnh
nhân có ít nhất một lần hạ đường huyết là
67,3%, hạ đường huyết nặng là 25,5% (Bảng 3).
Bảng 3. Biến chứng hạ đường huyết
Đặc điểm Tỷ lệ (%)
Tỉ lệ hạ đường huyết
Hạ đường huyết (<70 mg%) 14,5
Hạ đường huyết nặng (<40 mg%) 7,8
Tỉ lệ có ít nhất một lần hạ đường huyết trong
suốt thời gian truyền insulin
Hạ đường huyết (<70 mg%) 67,3
Hạ đường huyết nặng (<40 mg%) 25,5
Biến cố hạ đường huyết làm gia tăng tỉ lệ tử
vong nằm viện không có ý nghĩa thống kê
(OR=1,17; p = 0,783), tuy nhiên biến cố hạ đường
huyết nặng liên quan độc lập tới tăng nguy cơ tử
vong với OR = 6,3 (95% KTC 1,14 – 63, p=0,016)
(Bảng 4).
Những bệnh nhân đái tháo đường cũng tăng
nguy cơ tử vong so với những bệnh nhân tăng
đường huyết nhưng không có tiền căn hoặc
không được chẩn đoán đái tháo đường, với
OR=3,3 (95% KTC 0,96 – 10,9, p = 0,05).
Bảng 4. Mối liên quan giữa đái tháo đường, hạ
đường huyết và tử vong nằm viện
Tử vong
OR (95% KTC) p
Có n (%) Không n (%)
Hạ đường huyết
Có 22 (59,5) 15 (40,5) 1,17 (0,32–4,23) 0,783
Không 10 (55,6) 8 (44,4)
Hạ đường huyết nặng
Có 12 (85,7) 2 (14,3) 6,2* (1,17 – 33,1) 0,022
Không 20 (48,8) 21 (51,2)
Đái tháo đường
Có 24 (68,6) 11 (31,4) 3,3* (0,96 – 10,9) 0,05
Không 8 (40,0) 12 (60,0)
* Đã hiệu chỉnh
Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến hạ đường huyết
Các yếu tố
Hạ đường huyết
OR (95% KTC) p
Cón (%) Không n (%)
Giới
Nam 19 (51,4) 8 (44,4) 1,09 (0,76 – 1,58) 0,63
Nữ 18 (48,6) 10 (55,6)
Tuổi 57,9 ± 3,3 54,9 ± 3,4 0,57
Điểm SOFA 6,7 ± 0,6 6,6 ± 0,8 0,91
Điểm APACHE II 19,5 ± 1,1 18,2 ± 1,5 0,52
Đường huyết trung bình 181,5 ± 50,9 168,3 ± 30,6 0,34
Số lần kiểm tra đường huyết 4,6 ± 0,9 4,8 ± 0,7 0,35
Liều insulin trung bình 1,22 ± 0,49 1,17 ± 0,56 0,72
Năng lượng nhập trung bình 1232 ± 420 1132 ± 461 0,43
Nguyên nhân nhập HSTC
Không phẫu thuật 29 (78,4) 9 (50) 1,62 (0,96 – 2,77) 0,03
Phẫu thuật 8 (21,6) 9 (50)
Đái tháo đường
Có 25 (65,6) 10 (55,6) 1,19 (0,79 – 1,80) 0,38
Không 12 (32,4) 8 (44,4)
Suy chức năng thận
Có 14 (37,8) 7 (38,9) 0,99 (0,67 – 1,44) 0,94
Không 23 (62,2) 11 (61,1)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 446
Các yếu tố
Hạ đường huyết
OR (95% KTC) p
Cón (%) Không n (%)
Suy chức năng gan
Có 5 (15,6) 3 (21,4) 0,88 (0,49 – 1,56) 0,68
Không 27 (84,4) 11 (78,6)
Điều trị thay thế thận
Có 15 (40,5) 5 (27,8) 1,19 (0,83 – 1,71) 0,36
Không 22 (59,5) 13 (72,2)
Thở máy
Có 28 (75,7) 13 (72,2) 1,06 (0,68 – 1,65) 0,78
Không 9 (24,3) 5 (27,8)
Khi phân tích hai nhóm bệnh nhân có và
không có biến cố hạ đường huyết, có sự tương
đồng về giới, tuổi, mức độ nặng của bệnh thời
điểm nhập khoa HSTC, tỉ lệ suy chức năng gan,
thận. Chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý
nghĩa về liều insulin truyền, số lần kiểm tra
đường huyết cũng như tổng năng lượng dinh
dưỡng trung bình mỗi ngày giữa hai nhóm.
Tuy nhiên, những bệnh nhân nhập khoa
HSTC vì bệnh lý nội khoa liên quan với tăng
nguy cơ hạ đường huyết so với những bệnh
nhân ngoại khoa (PR = 1,62 với p = 0,03). Bên
cạnh đó, những bệnh nhân đái tháo đường hoặc
cần phải điều trị thay thế thận có khuynh hướng
tăng nguy cơ xảy ra biến cố này (Bảng 5).
Ở những bệnh nhân không và có xảy ra biến
cố hạ đường huyết nặng, chúng tôi nhận thấy
cũng có sự tương đồng về các yếu tố giới, tuổi,
mức độ nặng của bệnh, tỉ lệ suy chức năng gan,
thận vào thời điểm nhập khoa HSTC. Chúng tôi
cũng không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa về
liều insulin truyền, số lần kiểm tra đường huyết,
tổng năng lượng dinh dưỡng trung bình mỗi
ngày giữa hai nhóm. Trong khi đó, có khuynh
hướng tăng nguy cơ xảy ra biến cố hạ đường
huyết nặng ở những bệnh nhân đái tháo đường
hay có bệnh tim mạch nền hoặc thở máy.
BÀN LUẬN
Các đặc điểm về tuổi, giới, điểm APACHE II
và SOFA ngày nhập khoa của bệnh nhân trong
khảo sát của chúng tôi tương tự với các nghiên
cứu trước đó tại khoa HSTC bệnh viện Chợ Rẫy.
Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong ở nhóm này cao hơn so
với dân số bệnh nhân chung (58,2% vs 39,2%)(7).
Điều này cho thấy những bệnh nhân tăng
đường huyết cần kiểm soát bằng truyền insulin
tĩnh mạch có gánh nặng bệnh tật và tử vong cao.
Trong đó, bệnh nhân đái tháo đường chiếm tỉ lệ
63,6%, có tỉ lệ tử vong cao hơn có ý nghĩa thống
kê so với những bệnh nhân không đái tháo
đường (68,6% vs 40,0%; OR = 3,3; p = 0,05).
Trung bình mỗi ngày, tần suất hạ đường
huyết 14,5%, hạ đường huyết nặng 7,8%. Tần
suất này cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu
NICE‐SUGAR, với tỉ lệ hạ đường huyết nặng ở
nhóm bệnh nhân mục tiêu đường huyết trong
khoảng 140 – 180mg% là 0,5%, và nhóm bệnh
nhân mục tiêu đường huyết 80 – 110mg% là
7%(5). Theo nghiên cứu của Devos, tỉ lệ hạ đường
huyết nặng ở nhóm bệnh nhân mục tiêu đường
huyết 140 – 180mg% là 3% và tăng lên 10% ở
nhóm bệnh nhân cố gắng đạt mục tiêu đường
huyết 80 – 110mg%(2). Tương tự, trong nghiên
cứu của De La Rosa Gdel, tỉ lệ hạ đường huyết
và hạ đường huyết nặng ở nhóm bệnh nhân có
đường huyết trung bình 149 mg% lần lượt là
10% và 2%, thấp hơn so với khảo sát của chúng
tôi(1).
Hầu hết các khoa HSTC trên thế giới
khuyến khích sử dụng các phác đồ hướng dẫn
truyền insulin tĩnh mạch để hướng dẫn việc
theo dõi và điều chỉnh đường huyết cho các
bệnh nhân nặng. Các phác đồ này có thể giúp
cho điều dưỡng theo dõi giá trị đường huyết,
điều chỉnh liều insulin thích hợp và xử trí kịp
thời khi biến chứng khi xảy ra. Nhiều nghiên
cứu chứng minh áp dụng các phác đồ giúp
tăng hiệu quả kiểm soát đường huyết và giảm
tỉ lệ hạ đường huyết(8,14,15).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nội tiết 447
Trong nghiên cứu của chúng tôi, biến cố hạ
đường huyết làm gia tăng tỉ lệ tử vong nằm
viện không có ý nghĩa thống kê (OR = 1,17; p =
0,783), tuy nhiên biến cố hạ đường huyết nặng
liên quan độc lập đến tăng nguy cơ tử vong
với OR=6,3 (95% KTC 1,14 – 63, p = 0,016). Kết
quả này tương tự nghiên cứu của Krinsley và
cộng sự, hạ đường huyết nghiêm trọng là yếu
tố nguy cơ tử vong độc lập với OR = 2,28 (95%
KTC, 1,41‐3,7; p =0,0008)(13).
Một số yếu tố nguy cơ hạ đường huyết
thường được đề cập đến như sử dụng liều
insulin quá cao, theo dõi đường huyết không
chặt chẽ, nguyên nhân nhập khoa HSTC vì
bệnh lý nội khoa, bệnh lý quá nặng, bệnh nhân
suy gan, suy thận, nhiễm khuẩn huyết, ngưng
ăn hoặc dinh dưỡng kém, không bổ sung dinh
dưỡng đường tĩnh mạch, ngừng thuốc
corticoids hay thuốc vận mạch, điều trị thay
thế thận...(12).
Khi so sánh hai nhóm không và có hạ đường
huyết, chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có
ý nghĩa về mức độ nặng của bệnh cũng như liều
insulin, số lần kiểm tra đường huyết, năng
lượng nhập mỗi ngày, tỉ lệ suy chức năng gan,
thận. Tuy nhiên, những bệnh nhân đái tháo
đường hay có bệnh tim mạch nền, cần phải điều
trị thay thế thận hoặc thở máy có khuynh hướng
tăng nguy cơ xảy ra biến chứng hạ đường huyết.
KẾT LUẬN
Hạ đường huyết là biến chứng nguy hiểm
thường gặp ở những bệnh nhân nặng kiểm soát
đường huyết bằng truyền insulin tĩnh mạch tại
khoa HSTC. Hạ đường huyết nặng liên quan
độc lập đến tăng tỉ lệ tử vong nằm viện. Để giảm
biến chứng này, bên cạnh việc lưu ý và kiểm
soát các yếu tố nguy cơ, cần thiết phải nghiên
cứu ứng dụng các phác đồ hướng dẫn truyền
insulin phù hợp cho mỗi khoa phòng(8).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. De La Rosa Gdel C, Donado JH, Restrepo AH, Quintero AM,
Gonzalez LG, Saldarriaga NE, et al. (2008), ʺStrict glycaemic
control in patients hospitalised in a mixed medical and
surgical intensive care unit: a randomised clinical trialʺ. Crit
Care, 12(5), R120.
2. Devos P, Preiser J, Melot C (2007), ʺImpact of tight glucose
control by intensive insulin therapy on ICU mortality and the
rate of hypoglycaemia: final results of the glucontrol studyʺ.
Intensive Care Med, 33(Suppl 2), S189.
3. Egi M, Bellomo R, Stachowski E, French CJ, Hart GK, Taori G,
et al. (2010), ʺHypoglycemia and outcome in critically ill
patientsʺ. Mayo Clin Proc, 85(3), 217‐224.
4. Fahy BG, Sheehy AM, Coursin DB (2009), ʺGlucose control in
the intensive care unitʺ. Crit Care Med, 37(5), 1769‐1776.
5. Finfer S, Chittock DR, Su SY, Blair D, Foster D, Dhingra V, et
al. (2009), ʺIntensive versus conventional glucose control in
critically ill patientsʺ. N Engl J Med, 360(13), 1283‐1297.
6. Hermanides J, Bosman RJ, Vriesendorp TM, Dotsch R,
Rosendaal FR, Zandstra DF, et al. (2010), ʺHypoglycemia is
associated with intensive care unit mortalityʺ. Crit Care Med,
38(6), 1430‐1434.
7. Huynh Quang Dai, Pham Thi Ngoc Thao, Dang Van Phuoc
(2012), ʺApplication of the sequential organ failure assessment
(SOFA) score in predicting outcome of critically ill patientsʺ.
HCMC journal of medicine, 16(1), 21‐26.
8. Ichai C, Preiser JC (2010), ʺInternational recommendations for
glucose control in adult non diabetic critically ill patientsʺ.
Crit Care, 14(5), R166.
9. Inzucchi SE, Siegel MD (2009), ʺGlucose control in the ICU‐‐
how tight is too tight?ʺ. N Engl J Med, 360(13), 1346‐1349.
10. Kavanagh BP, McCowen KC (2010), ʺClinical practice.
Glycemic control in the ICUʺ. N Engl J Med, 363(26), 2540‐
2546.
11. Kovalaske MA, Gandhi GY (2009), ʺGlycemic control in
the medical intensive care unitʺ. J Diabetes Sci Technol, 3(6),
1330‐1341.
12. Krinsley JS (2011), ʺUnderstanding glycemic control in the
critically ill: 2011 updateʺ. Hosp Pract (1995), 39(2), 47‐55.
13. Krinsley JS, Grover A (2007), ʺSevere hypoglycemia in
critically ill patients: risk factors and outcomesʺ. Crit Care Med,
35(10), 2262‐2267.
14. Newton CA, Smiley D, Bode B W, Kitabchi A E, Davidson P
C, Jacobs S, et al. (2010), ʺA comparison study of continuous
insulin infusion protocols in the medical intensive care unit:
computer‐guided vs. standard column‐based algorithmsʺ. J
Hosp Med, 5(8), 432‐437.
15. Rea RS, Donihi AC, Bobeck M, Herout P, McKaveney TP,
Kane‐Gill SL, et al. (2007), ʺImplementing an intravenous
insulin infusion protocol in the intensive care unitʺ. Am J
Health Syst Pharm, 64(4), 385‐395. \
16. Van den Berghe G, Wouters P, Weekers F, Verwaest C,
Bruyninckx F, Schetz M, et al. (2001), ʺIntensive insulin
therapy in critically ill patientsʺ. N Engl J Med, 345(19),
1359‐1367.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 443_1444.pdf