Trước thực tế số lượng các trường đại học trong cả nước đã vượt
quá con số đưa ra trong Quyết định 37/2013/QĐ-TTg về Quy hoạch mạng
lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020, việc sáp nhập,
hợp nhất và giải thể các cơ sở giáo dục đại học là tất yếu và cần thiết để
xây dựng những đại học lớn, đủ khả năng cạnh tranh quốc tế. Bài báo trình
bày kinh nghiệm sáp nhập, liên kết các tổ chức giáo dục đại học và nghiên
cứu ở Pháp và Trung Quốc. Đối với mỗi quốc gia, bối cảnh giáo dục đại
học trong nước, các làn sóng sáp nhập, những tác động tích cực và tiêu
cực từ việc sáp nhập và liên kết đều được phân tích rõ. Phần cuối của bài
viết sẽ là những bài học rút ra đối với việc quy hoạch mạng lưới giáo dục
đại học ở Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 17/05/2022 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tìm hiểu việc sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học ở Pháp và Trung Quốc - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường tốt hơn cho
giảng dạy và nghiên cứu. Nhiều ngành học phải chịu ảnh
hưởng tiêu từ việc sáp nhập bởi sự lắp ghép một cách cơ
học các lĩnh vực có vẻ có liên quan. Nhiều tổ chức vẫn tiếp
tục hoạt động với cơ cấu tổ chức trước khi sáp nhập, không
đáp ứng nhanh chóng với nhu cầu của xã hội và thị trường.
Một số tổ chức được hưởng danh tiếng có được từ trước
khi sáp nhập nhưng phải chịu sự chi phối/ảnh hưởng của
các tổ chức khác. Trong một số trường hợp, những căng
thẳng, thậm chí là xung đột về ý thức hệ và cách tiếp cận
trong GD nổi lên giữa các bộ phận khác nhau của tổ chức
mới được sáp nhập.
- Về chi phí: Việc cải cách không thể không cần đến
kinh phí và việc cắt giảm chi phí là rất khó khăn. Sau khi
hợp nhất, các cuộc đàm phán mới về hội nhập bắt đầu, đó
là những cuộc đàm phán không có hồi kết gây tốn kém
về nhân lực và tài chính. Chi phí về vận chuyển giữa các
trường là một chi phí lớn, đặc biệt khi khoảng cách giữa
các trường là đáng kể.
- Sự khác biệt về tổ chức và vùng miền: Mỗi tổ chức đều
có những điểm mạnh và điểm yếu trong ba chức năng cơ
bản của các tổ chức GD ĐH là giảng dạy, nghiên cứu và
phục vụ xã hội. Vì sự khác biệt về mặt tổ chức và vùng
miền có ý nghĩa quan trọng trong các hệ thống GD ĐH
hiện đại nên các trường cần phải định vị một cách chiến
lược cho chính mình, không nhất thiết phải theo đuổi cả ba
nhiệm vụ. Sự hiểu biết và bảo vệ sự khác biệt có vẻ bị lãng
quên trong quá trình sáp nhập ĐH ở Trung Quốc hiện nay.
3. Bài học cho quy hoạch mạng lưới giáo dục
đại học ở Việt Nam
Trước thực tế, số lượng các trường ĐH trong cả nước đã
vượt quá mục tiêu mà Quyết định 37/2013/QĐ-TTg của
Chính phủ đề ra về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới
các trường ĐH, cao đẳng, giai đoạn 2006 - 2010, việc tái
cấu trúc, quy hoạch mạng lưới các cơ sở GD ĐH trên toàn
quốc là việc làm cần thiết và cấp bách. Bộ GD&ĐT đã có
dự thảo Đề án sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các cơ sở
GD ĐH công lập và dự kiến trình Thủ tướng vào quý II
năm 2020.
- Cùng với sự phát triển về mặt kinh tế - xã hội của đất
nước là sự mở rộng hệ thống GD ĐH. Hiện nay, ở Việt
Nam, không ít các trường ĐH, cao đẳng gặp khó khăn
trong tuyển sinh, chất lượng đào tạo chưa đảm bảo. Điều
đó đặt nền GD ĐH của Việt Nam phải đối mặt với những
vấn đề về kiểm soát chất lượng và hiệu quả. Trong khi đó,
ngân sách nhà nước có hạn, không thể tiếp tục bao cấp cho
hệ thống sự nghiệp, trong đó có GD. Xu hướng sáp nhập,
liên kết và giải thể ĐH là một hướng đi phù hợp với tình
hình trong nước và quốc tế.
- Ở cấp độ quốc gia, việc sáp nhập các trường ĐH phải
có hướng đi rõ ràng, lộ trình thích hợp với sự định hướng
tổng thể của nhà nước. Từ kinh nghiệm ở Trung Quốc,
Đảng và Nhà nước đã xây dựng các chính sách GD và
khoa học để đưa nền GD ĐH đạt tới đẳng cấp quốc tế, các
làn sóng sáp nhập được thực hiện từ quy mô cấp tỉnh rồi
mở rộng ra toàn quốc. Ở Pháp, các phong trào sáp nhập
được bắt đầu từ quy mô nhỏ, ở cấp trường và nhận được
Hoàng Minh Sơn, Bùi Thị Thúy Hằng, Đỗ Thị Thu Hằng
NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀI
64 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
sự hỗ trợ của Bộ và chính quyền địa phương để đưa ra một
cấu trúc sáp nhập ở cấp khu vực và cấp vùng. Vì vậy, cần
có một cơ quan nhà nước với các đại diện từ các trường
liên quan đứng ra điều phối quá trình sáp nhập và một ủy
ban giám sát theo dõi, hỗ trợ để giảm thiểu rủi ro.
- Ở cấp độ cơ sở GD ĐH, để xây dựng được một tổ chức
GD thống nhất và phát triển bền vững, cần tìm hiểu về
chuyên môn đào tạo, mục tiêu và định hướng phát triển,
điểm mạnh, điểm yếu của mỗi trường để thống nhất tầm
nhìn và các giá trị chung. Ngoài ra, các lí do, sự cần thiết,
cấp bách của việc sáp nhập và tiềm năng phát triển của các
bên liên quan cũng cần được truyền thông rõ ràng và liên
tục trước và trong suốt quá trình sáp nhập tới cán bộ, giảng
viên, sinh viên để việc sáp nhập và quy trình nội bộ của
trường được diễn ra thuận lợi [6].
- Từ kinh nghiệm thành lập các cục nghiên cứu và giảng
dạy ĐH của Pháp (PRES), Việt Nam có thể thành lập các
cụm trường trong khu vực, phân cấp và ủy quyền cho các
chủ thể, dẫn dắt họ từng bước hướng tới sự tự chủ và chịu
trách nhiệm, phối hợp các hoạt động giảng dạy và nghiên
cứu nhằm thúc đẩy số lượng các ấn phẩm quốc tế, cải thiện
danh tiếng của nền GD ĐH trong nước. Việc tạo ra các
phòng thí nghiệm liên kết đưa các nhà nghiên cứu từ các
trường ĐH và trung tâm nghiên cứu xích lại gần nhau, góp
phần làm gia tăng số lượng các ấn phẩm khoa học nhưng
đồng thời cũng đem lại những bài học có giá trị về việc
quản lí để quá trình thiết lập mối quan hệ giữa các trường
và các viện không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các bên
liên quan, cụ thể là việc xếp hạng của các đơn vị.
- Không nên ghép các trường một cách cơ học mà phải
tổ chức các trường phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh
vực để thích hợp với nền kinh tế thị trường và dịch vụ GD.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các tỉnh
và thành phố có quy mô vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho sinh
viên có cơ hội lựa chọn các ngành nghề phù hợp với sở
thích và năng lực cá nhân. Hơn nữa, ĐH đa lĩnh vực cũng
chứng tỏ một số ưu thế như: đào tạo đại cương tốt nhờ đội
ngũ giáo sư thuộc các lĩnh vực khoa học, phát triển tốt
công tác nghiên cứu và phục vụ xã hội vì các ngành nghiên
cứu hiện nay không tồn tại một cách đơn lẻ mà luôn có sự
kết hợp nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, thích nghi tốt với thị
trường nhân lực luôn thay đổi.
Tài liệu tham khảo
[1] Andrée Sursock, (2015), Mergers and Alliances in France:
Incentives, Succes Factors and Obstacles, pp. 17-31, in
Adrian Curaj, Luke Georghiou, Jennifer Cassingena
Harper, Eva Egron-Polak (Editors), Mergers and
Alliances in Higher Education: International Practice
and Emerging Opportunities, Springer Open.
[2] Monteil, J. M., (2004), 0403249 Direction de la recherche
et de l’enseignement supérieur. Circulaire. République
Française.
[3] Hayhoe, R, (1989), China’s universities and Western
academic models, Higher Education, 18(1), 49-85.
[4] Rui Yang, (2015), Institutional Mergers in Chinese
Higher Education, pp. 123-144, in Adrian Curaj, Luke
Georghiou, Jennifer Cassingena Harper, Eva Egron-Polak
(Editors), Mergers and Alliances in Higher Education:
International Practice and Emerging Opportunities,
Springer Open.
[5] Qiaochu Liua, Donald Pattonb, Martin Kenney, (2018),
Do university mergers create academic synergy?
Evidence from China and the Nordic Countries, Research
Policy, pp.98-107.
[6] Hoang Minh Son, Vu Van Yem, Nguyen Thi Huong,
(2019), Sáp nhập, hợp nhất, liên minh các cơ sở giáo dục
đại học - Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam,
Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội- Nghiên cứu
Giáo dục, Vol. 35, No. 3 (2019) 46-58.
STUDYING THE MERGING OF HIGHER EDUCATION INSTITUTIONS
IN FRANCE AND CHINA - LESSONS FOR VIETNAM
Hoang Minh Son1, Bui Thi Thuy Hang2,
Do Thi Thu Hang3
1 Email: hoang.minhson@hust.edu.vn
2 Email: hang.buithithuy@hust.edu.vn
Hanoi University of Science and Technology
No.1 Dai Co Viet, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
3 VNU University of Education,
Vietnam National University, Hanoi
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Email: hang.dtt@vnu.edu.vn
ABSTRACT: In fact, the number of universities in Vietnam has exceeded the
figure set out in the Decision 37/2013/QD-TTg of the Prime Minister on the
Planning of Universities and Colleges Network in the 2006-2020 period;
therefore, the merging, amalgamation and dissolution of higher education
institutions is indispensable and necessary to build large, international-
competitive universities. This article examines the experience of mergers
and alliances in higher education in France and China. For each country,
the domestic higher education context, the waves of mergers, as well as its
positive and negative effects will be analyzed. The final part of the article
will present lessons learned for the planning of higher education network
in Vietnam.
KEYWORDS: Higher education; university mergers; world; planning higher education
network; Vietnam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_viec_sap_nhap_cac_co_so_giao_duc_dai_hoc_o_phap_va.pdf