Tìm hiểu về vàng

Vànglà tên nguyên tốhoá họccó kí hiệu Au(L. aurum) và sốnguyên

tử79 trong bảng tuần hoàn. Là kim loại chuyển tiếp (hoá trị3 và 1) mềm,

dễuốn, dễdát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với

hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường toan(aqua

regia) đểtạo thành axít cloroauriccũng nhưchịu tác động của dung

dịch xyanuacủa các kim loại kiềm. Kim loại này có ởdạng quặnghoặc hạt

trong đá và trong các mỏbồi tích và là một trong số kim loại đúc tiền.

pdf27 trang | Chia sẻ: lelinhqn | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tìm hiểu về vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vàng Vàng là tên nguyên tố hoá học có kí hiệu Au (L. aurum) và số nguyên tử 79 trong bảng tuần hoàn. Là kim loại chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1) mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, màu vàng và chiếu sáng, vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất nhưng lại chịu tác dụng của nước cường toan (aqua regia) để tạo thành axít cloroauric cũng như chịu tác động của dung dịch xyanua của các kim loại kiềm. Kim loại này có ở dạng quặng hoặc hạt trong đá và trong các mỏ bồi tích và là một trong số kim loại đúc tiền. Vàng được dùng làm một tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều nước và cũng được sử dụng trong các ngành trang sức, nha khoa và điện tử. Mã tiền tệ ISO của nó là XAU. Các đặc tính đáng lưu ý Vàng là nguyên tố kim loại có màu vàng khi thành khối, khi dạng bột vàng nguyên chất 100% có màu đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn. Nó là kim loại dễ uốn dát nhất được biết. Thực tế, 1 g vàng có thể được dập thành tấm 1 m², hoặc 1 ounce thành 300 feet². Là kim loại mềm, vàng thường tạohợp kim với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm. Vàng có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí và phần lớn hoá chất (chỉ có bạc và đồng là những chất dẫn điện tốt hơn). Nó không bị ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn mòn; vì vậy nó thích hợp để tạo tiền kim loại và trang sức. Các halogen có tác dụng hoá học với vàng, còn nước cường toan thì hoà tan nó. Màu của vàng rắn cũng như của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường tía) được tạo ra bởi tần số plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy được, tạo ra ánh sáng vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ. Vàng nguyên thuỷ có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế. Hợp kim tự nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. Khi lượng bạc tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm. Vàng tạo hợp kim với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kimcho màu trắng, bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Đồ trang sức được làm bằng các kết hợp vàng nhiều màu được bán cho du khách ở miền Tây nước Mĩ được gọi là "vàng Black Hills". Trạng thái ôxi hoá thường gặp của vàng gồm +1 (vàng(I) hay hợp chất aurous) và +3 (vàng(III) hay hợp chất auric). Ion vàng trong dung dịch sẵn sàng được khử và kết tủa thành vàng kim loại nếu thêm hầu như bất cứ kim loại nào khác làm tác nhân khử. Kim loại thêm vào được ôxi hoá và hoà tan cho phép vàng có thể được lấy khỏi dung dịch và được khôi phục ở dạng kết tủa rắn. Sử dụng và Ứng dụng Vàng nguyên chất quá mềm không thể dùng cho việc thông thường nên chúng thường được làm cứng bằng cách tạo hợp kim với bạc, đồng và các kim loại khác. Vàng và hợp kim của nó thường được dùng nhiều nhất trong ngành trang sức, tiền kim loại và là một chuẩn cho trao đổi tiền tệ ở nhiều nước. Vì tính dẫn điện tuyệt vời, tính kháng ăn mòn và các kết hợp lí tính và hóa tính mong muốn khác, vàng nổi bật vào cuối thế kỉ 20 như là một kim loại công nghiệp thiết yếu. Trao đổi tiền tệ Vàng đã được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới như một phương tiện chuyển đổi tiền tệ, hoặc bằng cách phát hành và công nhận các đồng xu vànghay các số lượng kim loại khác, hay thông qua các công cụ tiền giấy có thể quy đổi thành vàng bằng cách lập ra bản vị vàng theo đó tổng giá trị tiền được phát hành được đại diện bởi một lượng vàng dự trữ. Tuy nhiên, số lượng vàng trên thế giới là hữu hạn và việc sản xuất không gia tăng so với nền kinh tế thế giới. Ngày nay, sản lượng khai thác vàng đang sụt giảm.[1] Với sự tăng trưởng mạnh của các nền kinh tế trong thế kỷ 20, và sự gia tăng trao đổi quốc tế, dự trữ vàng thế giới và thị trường của nó đã trở thành một nhánh nhỏ của toàn bộ các thị trường và các tỷ lệ trao đổi tiền tệ cố định với vàng đã trở nên không thể duy trì. Ở đầu Thế chiến I các quốc gia tham gia chiến tranh đã chuyển sang một bản vị vàng nhỏ, gây lạm phát cho đồng tiền tệ của mình để có tiền phục vụ chiến tranh. Sau Thế chiến IIvàng bị thay thế bởi một hệ thống tiền tệ có thể chuyển đổi theo hệ thống Bretton Woods. Bản vị vàng và tính chuyển đổi trực tiếp của các đồng tiền sang vàng đã bị các chính phủ trên thế giới huỷ bỏ, bị thay thế bằng tiền giấy. Thuỵ Sĩ là quốc gia cuối cùng gắn đồng tiền của mình với vàng; vàng hỗ trợ 40% giá trị của tiền cho tới khi Thuỵ Sĩ gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 1999.[2] Vàng nguyên chất quá mềm để có thể được sử dụng như tiền tệ hàng ngày và nó thường được làm cứng thêm bằng cách thêm đồng, bạc hay các loại kim loại cơ sở khác. Hàm lượng vàng trong hợp kim được xác định bằng cara (k). Vàng nguyên chất được định danh là 24k. Các đồng xu vàng được đưa vào lưu thông từ năm 1526 tới thập niên 1930 đều là hợp chất vàng tiêu chuẩn 22k được gọi là vàng hoàng gia, vì độ cứng. Đầu tư Nhiều người sở hữu vàng và giữ chúng dưới hình thức các thỏi nén hay thanh như một công cụ chống lại lạm phát hay những đợt khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế không tin việc giữ vàng là một công cụ chống lạm phát hay mất giá tiền tệ.[3] Mã tiền tệ ISO 4217 của vàng là XAU. Các thỏi vàng hiện đại cho mục đích đầu tư hay cất trữ không yêu cầu các tính chất cơ khí tốt; chúng thường là vàng nguyên chất 24k, dù American Gold Eagle, gold sovereign của Anh, và Krugerrand của Nam Phi tiếp tục được đúc theo chất lượng 22k theo truyền thống. Đồng xu Canadian Gold Maple Leaf phát hành đặc biệt có chứa lượng vàng nguyên chất cao nhất so với bất kỳ thỏi vàng nào, ở mức 99.999% hay 0.99999, trong khi đồng xu Canadian Gold Maple Leaf phát hành phổ thông có độ nguyên chất 99.99%. Nhiều đồng xu vàng nguyên chất 99.99% khác cũng có trên thị trường. Australian Gold Kangaroos lần đầu tiên được đúc năm 1986 như Australian Gold Nugget. Chủ đề kangaroo của nó xuất hiện năm 1989. Ngoài ra, có nhiều đồng xu thuộc serie Australian Lunar Calendar, và Austrian Philharmonic. Năm 2006, United States Mint bắt đầu sản xuất đồng xu vàng American Buffalo với độ nguyên chất 99.99%. Nữ trang Vòng cổ vàng Moche với các hình đầu mèo. Bộ sưu tập Bảo tàng Larco Collection. Lima-Peru Vì tính mềm của vàng nguyên chất (24k), nó thường được pha trộn với các kim loại căn bản khác để sử dụng trong công nghiệp nữ trang, làm biến đổi độ cứng và tính mềm, điểm nóng chảy, màu sắc và các đặc tính khác. Các hợp kim với độ cara thấp, thường là 22k, 18k, 14k hay 10k, có chứa nhiều đồng, hay các kim loại cơ bản khác, hay bạc hay palladium hơn trong hỗn hợp. Đồng là kim loại cơ sở thường được dùng nhất, khiến vàng có màu đỏ hơn. Vàng 18k chứa 25% đồng đã xuất hiện ở đồ trang sức thời cổ đại và đồ trang sức Nga và có kiểu đúc đồng riêng biệt, dù không phải là đa số, tạo ra vàng hồng. Hợp kim vàng-đồng 14k có màu sắc gần giống một số hợp kim đồng, và cả hai đều có thể được dùng để chế tạo các biểu trưng cho cảnh sát và các ngành khác. Vàng xanh có thể được chế tạo bởi một hợp kim với sắt và vàng tía có thể làm bằng một hợp kim với nhôm, dù hiếm khi được thực hiện trừ khi trong trường hợp đồ trang sức đặc biệt. Vàng xanh giòn hơn và vì thế khó chế tác hơn trong ngành trang sức. Các hợp kim vàng 18 và 14 carat chỉ pha trộn với bạc có màu xanh-vàng nhất và thường được gọi là vàng xanh. Các hợp kim vàng trắng có thể được làm với palladium haynickel. Vàng trắng 18 carat chứa 17.3% nickel, 5.5% kẽm và 2.2% đồng có màu bạc. Tuy nhiên, nickel là chất độc, và độ giải phóng của nó bị luật pháp quản lý ở châu Âu. Các loại hợp kim vàng trắng khác cũng có thể thực hiện với palladium, bạc và các kim loại trắng khác,[4] nhưng các hợp kim palladium đắt hơn các hợp kim dùng nickel. Các hợp kim vàng trắng có độ nguyên chất cao có khả năng chống ăn mòn hơn cả bạc nguyên chất hay bạc sterling. Hội tam điểm Nhật Mokume-gane đã lợi dụng sự tương phản màu sắc giữa màu sắc các hợp kim vàng khi dát mỏng để tạo ra các hiệu ứng kiểu thớ gỗ. Y tế Thời Trung Cổ, vàng thường được xem là chất có lợi cho sức khoẻ, với niềm tin rằng một thứ hiếm và đẹp phải là thứ tốt cho sức khoẻ. Thậm chí một số người theo chủ nghĩa bí truyền và một số hình thức y tế thay thế khác coi kim loại vàng có sức mạnh với sức khoẻ.[5] Một số loại muối thực sự có tính chất chống viêm và đang được sử dụng trong y tế để điều trị chứng viêm khớp và các loại bệnh tương tự khác.[6] Tuy nhiên, chỉ các muối và đồng vị của vàng mới có giá trị y tế, khi là nguyên tố (kim loại) vàng trơ với mọi hoá chất nó gặp trong cơ thể. Ở thời hiện đại, tiêm vàng đã được chứng minh là giúp làm giảm đau và sưng do thấp khớp và lao.[6][7] Các hợp kim vàng đã được sử dụng trong việc phục hồi nha khoa, đặc biệt là răng, như thân răng và cầu răng vĩnh viễn. Tính dễ uốn của các hợp kim vàng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo bề mặt kết nối răng và có được các kết quả nói chung tốt hơn các loại khác làm bằng sứ. Việc sử dụng thân răng vàng với các răng có số lượng nhiều như răng cửa đã được ưa chuộng ở một số nền văn hoá nhưng lại không được khuyến khích ở các nền văn hoá khác. Sự pha chế vàng keo (chất lỏng gồm các phân tử nano vàng) trong nước có màu rất đỏ, và có thể được thực hiện với việc kiểm soát kích cỡ các phân tử lên tới một vài phần chục nghìn nanomét bằng cách giảm vàng chloride với các ion citrate hay ascorbate. Vàng keo được sử dụng trong nghiên cứu y khoa, sinh học và khoa học vật liệu. Kỹ thuật miễn dịch vàng (immunogold) khai thác khả năng của các phần tử vàng hấp thụ các phân tử protein lên các bên mặt của chúng. Các phần tử vàng keo được bao phủ với các kháng thể riêng biệt có thể được dùng để phát hiện sự hiện diện và vị trí của các kháng nguyên trên bề mặt của tế bào.[8] Trong các phần siêu mỏng của mô được quan sát bởi kính hiển vi electron, các đoạn immunogold xuất hiện với mật độ cực lớn bao quanh các điểm ở vị trí của kháng thể.[9] Vàng keo cũng là hình thức vàng được sử dụng như sơn vàng trong ngành gốm sứ trước khi nung. Vàng, hay các hợp kim của vàng và palladium, được áp dụng làm lớp dẫn cho các mẫu sinh học và các vật liệu phi dẫn khác như plastics và kính để được quan sát trong một kính hiển vi electron quét. Lớp phủ, thường được tạo bởi cách thổi với một argon plasma, có ba vai trò theo cách ứng dụng này. Tính dẫn điện rất cao của vàng dẫn điện tích xuống đất, và mật độ rất cao của nó cung cấp năng lượng chặn cho các electron trong chùm electron, giúp hạn chế chiều sâu chùm electron xâm nhập vào trong mẫu. Điều này cải thiện độ nét của điểm và địa hình bề mặt mẫu và tăng độ phân giải không gian của hình ảnh. Vàng cũng tạo ra một hiệu suất cao của các electron thứ hai khi bị bức xạ bởi một chùm electron, và các electron năng lượng thấp đó thường được dùng làm nguồn tín hiệu trong kính hiển vi quét electron.[10] Đồng vị vàng-198, (bán rã 2.7 ngày) được dùng trong một số phương pháp điều trị ung thư và để điều trị một số loại bệnh.[11] Thực phẩm và đồ uống  Vàng có thể được sử dụng trong thực phẩm và có số E 175.[12]  Vàng lá, bông hay bụi được dùng trên và trong một số thực phẩm cho người sành ăn, đáng chú ý nhất là các đồ bánh kẹo và đồ uống như thành phần trang trí.[13] Vàng lá đã được giới quý tộc thời châu Âu Trung Cổ sử dụng như một thứ đồ trang trí cho thực phẩm và đồ uống, dưới dạng lá, bông hay bụi, hoặc để thể hiện sự giàu có của chủ nhà hay với niềm tin rằng một thứ có giá trị và hiếm sẽ có lợi cho sức khoẻ con người. Lá vàng và bạc thỉnh thoảng được dùng trong các đồ bánh kẹo ở Nam Á như barfi.[14]  Goldwasser (nước vàng) là một đồ uống thảo mộc truyền thống được sản xuất tại Gdańsk, Ba Lan, và Schwabach, Đức, và có chứa những bông vàng lá. Cũng có một số loại cocktail đắt giá (~$1000) có chứa bông vàng lá.[15] Tuy nhiên, bởi vàng kim loại trơ với mọi chất hoá học trong cơ thể, nó không mang lại hương vị cũng không có hiệu quả dinh dưỡng nào và không làm thay đổi gì cho cơ thể.[16] Công nghiệp Viên gạch vàng 220 kg được trưng bày tại Bảo tàng Vàng Chinkuashi, Đài Loan,Trung Hoa Dân Quốc Thanh vàng lớn nhất thế giới nặng 250 kg. Bảo tàng Toi, Nhật Bản. Một cục vàng tự nhiên đường kính 5 mm (đáy) có thể được dát mỏng bằng búa thành một lá vàng khoảng 0.5 mét vuông. Bảo tàng Toi, Nhật Bản.  Hàn vàng được dùng để gắn kết các thành phần vàng trang sức bằng chất hàn cứng nhiệt độ cao hay đồng thau. Nếu công việc đòi hỏi chất lượng chứng nhận, vàng hàn phải có cùng trọng lượng carat, và công thức hợp kim được chế tạo theo hầu hết tiêu chuẩn trọng lượng carat công nghiệp màu sắc đáp ứng vàng vàng và trắng. Hàn vàng thường được thực hiện ở ít nhất ba điểm nóng chảy được gọi là Dễ, Trung bình và Khó. Bằng cách sử dụng mức khỏ, ban đầu đưa nó tới điểm nóng chảy, tiếp đó người hàn sẽ dần hạ thấp điểm nóng chảy, thợ vàng có thể lắp ráp các đồ vật phức tạp với nhiều điểm hàn riêng biệt.  Vàng có thể được chế tạo thành sợi chỉ và được dùng trong thêu thùa.  Vàng mềm và có thể uốn, có nghĩa nó có thể được chế tạo thành sợi dây rất mỏng và có thể được dát thành tấm rất mỏng gọi là lá vàng.  Vàng tạo màu đỏ sâu khi được dùng làm tác nhân màu trong ngành thuỷ tinh.  Trong chụp ảnh, các chất liệu màu bằng vàng được dùng để chuyển đổi màu của các điểm trắng và đen trên giấy ảnh thành màu xám và xanh, hay để tăng sự ổn định của chúng. Được dùng trong in tông nâu đỏ, chất màu vàng tạo ra các tông đỏ. Kodak đã công bố các công thức cho nhiều kiểu tông màu từ vàng, sử dụng vàng như chloride.[17]  Bởi vàng là một chất phản xạ tốt với bức xạ điện từ như hồng ngoại và ánh sáng nhìn thấy được cũng như các sóng radio, nó được dùng làm lớp phủ bảo vệ cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và mũ của các nhà du hành vũ trụ và trên các máy bay chiến tranh điện tử nhưEA-6B Prowler.  Vàng được dùng như lớp phản xạ trên một số đĩa CD công nghệ cao.  Ô tô có thể sử dụng vàng để tản nhiệt. McLaren sử dụng vàng lá trong khoang động cơ model F1 của mình.[18]  Vàng có thể được sản xuất mỏng tới mức nó dường như trong suốt. Nó được dùng trong một số cửa sổ buồng lái máy bay để làm tan băng hay chống đóng băng bằng cách cho một dòng điện chạy qua đó. Nhiệt tạo ra bởi kháng trở của vàng đủ để khiến băng không thể hình thành.[19] Điện tử Sự tập trung các electron tự do trong kim loại vàng là 5.90×1022 cm−3. Vàng có tính dẫn điện rất cao, và đã được dùng làm dây dẫn điện trong một số thiết bị tiêu thụ nhiều điện năng (bạc thậm chí có độ dẫn điện trên thể tích cao hơn, nhưng vàng có ưu điểm chống ăn mòn). Ví dụ, các dây dẫn điện bằng vàng đã được sử dụng trong một số thực nghiệm nguyên tử thuộc Dự án Manhattan, nhưng những dây dẫn bạc dòng lớn cũng được sử dụng trong các nam châm tách đồng vị calutron của dự án này. Dù vàng bị chlorine tự do tấn công, tính dẫn điện tốt của nó và khả năng chống ôxi hoá và ăn mòn nói chung trong các môi trường khác (gồm cả khả năng kháng axít không chlorine) đã khiến nó được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp điện tử bởi chỉ một lớp phủ vàng mỏng có thể đảm bảo kết nối điện mọi dạng, vì thế đảm bảo độ kết nối tốt. Ví dụ, vàng được dùng làm thiết bị nối của các dây dẫn điện đắt đỏ, như audio, video và cáp USB. Lợi ích của việc sử dụng vàng làm kim loại kết nối so với kim loại khác như thiếc đang bị tranh luận dữ dội. Các kết nối vàng thường bị các chuyên gia nghe nhìn chỉ trích là không cần thiết với hầu hết khách hàng và bị coi chỉ đơn giản là một trò marketing. Tuy nhiên, việc sử dụng vàng trong các thiết bị điện tử kiểu trượt khác trong các môi trường rất ẩm ướt và ăn mòn, và cho các tiếp xúc với chi phí hư hỏng lớn (một số máy tính, thiết bị thông tin, tàu vũ trụ, động cơ máy bay phản lực) vẫn rất phổ biến.[20] Bên cạnh tiếp xúc điện kiểu trượt, vàng cũng được dùng trong tiếp xúc điện bởi nó có khả năng kháng ăn mòn, độ dẫn điện, mềm và không độc.[21] Các công tắc kiểu bấm nói chung dễ bị ăn mòn hơn công tắc trượt. Các dây dẫn bằng vàng mỏng được dùng để kết nối các thiết bị bán dẫn với gói thiết bị của chúng qua một quá trình được gọi là kết nối dây. [sửa]Hoá học Vàng bị tấn công và hoà tan trong các dung dịch kiềm hay natri cyanide, và cyanide vàng là chất điện phân được dùng trong kỹ thuật mạ điện vàng lên các kim loại cơ sở và kết tủa điện. Các dung dịch vàng chloride (chloroauric acid) được dùng để chế tạo vàng keo bằng cách khử với citrate hay ascorbate ions. Vàng chloride và vàng oxide được dùng để chế tạo thuỷ tinh màu đỏ hay thuỷ tinh có giá trị cao, mà, như chất lỏng keo vàng, có chứa các phân tử nanovàng với kích cỡ đồng đều.[22] Đơn vị đo lường Xem thêm Hệ đo lường kim hoàn Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối lượng của vàng được tính theo đơn vị là cây (lượng hay lạng) hoặc chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 g. Một chỉ bằng 1/10 cây vàng. Trên thị trường thế giới, vàng thường được đo lường theo hệ thống khối lượng troy, trong đó 1 troy ounce (ozt) tương đương 31,1034768 gram. Tuổi (hay hàm lượng) vàng được tính theo thang độ K (Karat). Một Karat tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 99,99% tương đương với 24K. Khi ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong mẫu xấp xỉ 75%. Hiện nay ở Việt Nam người ta thường kinh doanh vàng dưới dạng các bánh, thỏi, nhẫn, dây chuyền, vòng, lắc với hàm lượng vàng chủ yếu là 99,999% hay 99,99%, 99,9%, 99% hay 98%. Vàng dùng trong ngành trang sức thông thường còn gọi là vàng tây có tuổi khoảng 18K. [sửa]Lịch sử Bản đồ Giấy cói Turin Mặt nạ tang lễ của Tutankhamun Jason returns with the golden fleece on an Apulian red- figurecalyx krater, ca. 340–330 BC. Vàng đã được biết tới và sử dụng bởi các nghệ nhân từ thời Chalcolithic. Các đồ tạo tác bằng vàng ở Balkans xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, như những đồ vật được tìm thấy tại Varna Necropolis. Các đồ tạo tác bằng vàng như những chiếc mũ vàng và đĩa Nebra xuất hiện ở Trung Âu từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên trong Thời đồ đồng. Egyptian hieroglyph ngay từ năm 2600 BC đã miêu tả vàng, mà vua Tushratta của Mitanni tuyên bố là "nhiều hơn cát bụi" tại Ai Cập.[23] Ai Cập và đặc biệt là Nubiacó các nguồn tài nguyên để biến họ trở thành các trung tâm chế tạo vàng trong hầu hết lịch sử. Bản đồ sớm nhất được biết tới là Bản đồ giấy cói Turin và thể hiện sơ đồ của một mỏ vàng tại Nubia cùng với những chỉ dẫn địa lý địa phương. Các phương thức chế biến ban đầu đã được Strabo miêu tả và gồm cả việc nung chảy. Những mỏ lớn cũng hiện diện trên khắp Biển Đỏ ở nơi hiện là Ả Rập Saudi. Truyền thuyết về bộ lông cừu vàng có thể để cập tới việc dùng lông cừu để khai thác bụi vàng từ trầm tích cát vàng ở thế giới cổ đại. Vàng thường được đề cập tới trong Cựu ước, bắt đầu với Khải huyền 2:11 (tại Havilah) và gồm trong với các quà tặng của magi trong những chương đầu tiên của Tân ước của Matthew. Sách Khải huyền 21:21 đã miêu tả thành phố Jerusalem Mới có các đường phố "làm bằng vàng nguyên chất, sáng như pha lê". Góc tây nam của Biển Đen nổi tiếng với vàng. Việc khai thác được cho là đã bắt đầu từ thời Midas, và vàng ở đây đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cái có thể là đồng tiền đúc đầu tiên tại Lydiakhoảng năm 610 trước Công Nguyên.[24] Từ thế kỷ thứ 6 hay thứ 5 trước Công Nguyên, nhà Chu đã cho sử dụng Ying Yuan, một kiểu đồng tiền xu vàng. Người La Mã đã phát triển các kỹ thuật mới để khai thác vàng ở quy mô lớn bằng các phương pháp khai mỏ thuỷ lực, đặc biệt tại Tây Ban Nha từ năm 25 trước Công Nguyên trở về sau và tại Romania từ năm 150 sau Công Nguyên trở về sau. Một trong những mỏ lớn nhất nằm tại Las Medulas ở León (Tây Ban Nha), nơi bảy cống dẫn nước dìa cho phép tháo hầu hết trầm tích bồi tích lớn. Các mỏ tại Roşia Montană ở Transylvania cũng rất lớn, và cho tới tận gần đây, vẫn được khai thác bằng các phương pháp đúc lộ thiên. Các mỏ nhỏ hơn tại Anh cũng được khai thác, như các trầm tích cát vàng và đá cứng tại Dolaucothi. Nhiều phương pháp họ sử dụng đã được Pliny già miêu tả kỹ lưỡng trong bách khoa toàn thư của mình Naturalis Historia được viết vào khoảng cuối thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Đế chế Mali tại châu Phi nổi tiếng khắp Cựu thế giới về trữ lượng vàng lớn của mình. Mansa Musa, nhà cai trị đế chế (1312–1337) trở nên nổi tiếng khắp cựu thế giới về cuộc hành hương của mình tới Mecca năm 1324. Ông đã đi qua Cairo tháng 7 năm 1324, ông được tả là đã được tháp tùng bởi một đoàn lạc đà với hàng nghìn người và gần một trăm con lạc đà. Ông đã cho đi rất nhiều vàng tới mức vàng giảm giá ở Ai Cập trong hơn một thập kỷ.[25] Một sử gia Ả Rập đương thời đã bình luận: “ Vàng đang có giá cao ở Ai Cập cho tới khi họ tới năm ấy. Mithqal không dưới 25 dirhams và nói chung là hơn, nhưng từ thời điểm ấy giá trị của nó đã giảm và mức giá thấp này vẫn còn tới ngày nay. Mithqal không vượt quá 22 dirhams hay ít hơn. Đây là mức giá trao đổi trong khoảng mười hai năm cho tới hiện tại bởi số lượng vàng lớn mà họ đã mang tới Ai Cập và chi tiêu tại đó [...] ” —Chihab Al-Umari[26] Cuộc thám hiểm châu Mỹ của người châu Âu đã được kích thích một phần lớn bởi những báo cáo về các đồ trang sức bằng vàng được trưng bày khắp nơi bởingười bản xứ châu Mỹ, đặc biệt tại Trung Mỹ, Peru, Ecuador và Colombia. Người Aztec coi vàng theo nghĩa đen là sản phẩm của thần thánh, gọi nó là "phân của thánh" (teocuitlatl trong Nahuatl).[27] Dù giá của một số nhóm kim loại platinum cao hơn nhiều, vàng từ lâu đã được coi là kim loại đáng thèm muốn nhất trong các kim loại quý, và giá trị của nó đã được sử dụng làm bản vị cho nhiều tiền tệ (được gọi là bản vị vàng) trong lịch sử. Vàng đã được sử dụng như một biểu tượng cho sự thanh khiết, giá trị, sự vương giả, và đặc biệt các vai trò phối hợp cả ba đặc tính đó. Vàng như một dấu hiệu của sự giàu sang và danh vọng đã bị Thomas More đem ra chế nhạo trong chuyên luận Utopia. Trên hòn đảo tưởng tượng đó, vàng quá dư thừa tới mức nó được dùng làm xiềng xích cho nô lệ, đồ ăn và đồ toilet. Khi các đại sứ từ các quốc gia khác tới, đeo những bộ đồ trang sức bằng vàng, người dân Utopia tưởng họ là những kẻ hầu hạ, và chỉ tỏ lòng kính trọng với những người ăn mặc xoàng xĩnh nhất trong đoàn. Có một truyền thống từ lâu là việc cắn vàng để thử nó. Dù đây chắc chắn không phải là một cách chuyên nghiệp để thử vàng, việc cắn để thử có thể để lại dấu vết vì vàng là một kim loại mềm, như được chỉ ra bởi điểm của nó trong bảng độ cứng khoáng sản Mohs. Vàng càng nguyên chất thì càng dễ tạo dấu. Chì được sơn có thể đánh lừa việc thử này bởi chì mềm hơn vàng (và có thể gây ra một nguy cơ ngộ độc chì nhỏ nếu một lượng chì đủ lớn bị hấp thụ trong lần cắn). Vàng thời cổ đại về mặt địa chất khá dễ để có được; tuy nhiên 75% tổng lượng vàng từng được khai thác đã được khai thác từ năm 1910.[28] Ước tính rằng tổng lượng vàng từng được khai thác sẽ tạo ra một khối 20 m (66 ft) mỗi cạnh (tương đương 8000 m3).[28] Một mục đích chính của các nhà giả kim thuật là tạo ra vàng từ các dẫn xuất khác, như chì — được cho là qua tương tác với một chất bí ẩn được gọi là đá của nhà triết học. Dù họ không bao giờ thành công trong nỗ lực này, các nhà giả kim thuật đã khiến người ta quan tâm hơn vào cái có thể thực hiện được với các chất, và điều này đã đặt ra nền tảng cho ngành hoá học ngày nay. Biểu tượng của họ cho vàng là vòng tròn với một điểm ở tâm (☉), cũng là biểu tượng chiêm tinh và chữ cái Trung Quốc cổ cho Mặt trời. Với việc tạo ra vàng nhân tạo thời hiện đại bằng cách bắt neutron, xem Tổng hợp vàng. Trong thế kỷ 19, những cuộc đổ xô đi tùm vàng đã xảy ra bất kỳ khi nào những trầm tích vàng lớn được phát hiện. Lần khám phá đầu tiên ra vàng tại Hoa Kỳ được ghi lại là tại Mỏ Vàng Reed gần Georgeville, Bắc Carolina năm 1803.[29] Cuộc đổ xô đi tìm vàng đầu tiên ở Hoa Kỳ diễn ra tại một thị trấn nhỏ phía bắc Georgia tên là Dahlonega.[30] Những cuộc đổ xô đi tìm vàng khác diễn ra tạiCalifornia, Colorado, Black Hills, Otago, Australia, Witwatersrand, và Klondike. Bởi giá trị cao từ trong lịch sử của nó, đa số vàng đã được khai thác trong suốt lịch sử vẫn đang được lưu chuyển dưới hình thức này hay hình thức khác. Occurrence Cục vàng tự nhiên 156-ounce (4.85 kg) này được một người tìm quặng tìm thấy ở Sa mạc Nam California bằng một máy dò kim loại. Số nguyên tử 79 của vàng khiến nó là một trong những nguyên tố có số nguyên tử lớn nhất xảy ra trong tự nhiên. Giống mọi nguyên tố với các số nguyên tử lớn hơn sắt, vàng được cho là đã hình thành từ một quá trình tổng hợp hạt nhân sao siêu mới. Những vụ nổ sao siêu mới tung bụi có chứa kim loại (gồm cả các nguyên tố nặng như vàng) vào trong vùng k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvang_9028.pdf
Tài liệu liên quan