Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước ta hiện nay với rất nhiều biến chuyển theo từng phút, từng giờ và chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Sự hội nhập của chúng ta vào nền kinh tế thế giới ngày càng manh mẽ và sâu rộng, đặc biệt khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Hơn thế nữa xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới việc phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế và chính trị giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi. Đặc biệt là những năm gần đây khi mà những cuộc khủng hoảng về kinh tế diễn ra ngày một phức tạp và có những tín hiệu không tốt có sức ảnh hưởng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam kinh tế thị trường đã thúc đẩy làm cho kinh tế có sức tăng trưởng và sự cạnh tranh song nó cũng kéo theo nhiều vấn đề phức tạp về xã hội. Đặc biệt khi con người quá chạy theo đồng tiền mà quên đi những giá trị cốt lõi của bản thân. Với quan điểm của đảng và nhà nước ta về hội nhập là “hội nhập chứ không hòa tan” chúng ta đã làm được một số việc song còn tồn tại rất nhiều bất cập. Nếu những vấn đề về giáo dục đạo đức nhân cách chưa được đề cao thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường sẽ vẫn tiếp tục ảnh hưởng lớn đến xã hội. Vì vậy việc giáo dục nhân cách đạo đức và đặc biệt là giáo dục về tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh cho lớp trẻ hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Một vấn đề quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta cần nhắc tới đó chính là quan điểm về dân của người và mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước. Đây được coi là điểm sang trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là kim chỉ nan hành động cho Đảng và nhà nước ta hiện nay. Dưới sự giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn em đã tìm hiểu và viết ra những luận điểm sau đây về sự hiểu biết của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô và rất mong nhận được sự góp ý của cô để hoàn thiện thêm kiến thức của mình.
19 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tìm hiểu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và nhà nước hiện nay giải quyết như thế nào, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Tên đề tài: Tìm hiểu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và nhà nước hiện nay giải quyết như thế nào.
Hà nội ngày: 11-11-2010
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước ta hiện nay với rất nhiều biến chuyển theo từng phút, từng giờ và chịu tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Sự hội nhập của chúng ta vào nền kinh tế thế giới ngày càng manh mẽ và sâu rộng, đặc biệt khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Hơn thế nữa xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới việc phụ thuộc lẫn nhau cả về kinh tế và chính trị giữa các quốc gia là không thể tránh khỏi. Đặc biệt là những năm gần đây khi mà những cuộc khủng hoảng về kinh tế diễn ra ngày một phức tạp và có những tín hiệu không tốt có sức ảnh hưởng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam kinh tế thị trường đã thúc đẩy làm cho kinh tế có sức tăng trưởng và sự cạnh tranh song nó cũng kéo theo nhiều vấn đề phức tạp về xã hội. Đặc biệt khi con người quá chạy theo đồng tiền mà quên đi những giá trị cốt lõi của bản thân. Với quan điểm của đảng và nhà nước ta về hội nhập là “hội nhập chứ không hòa tan” chúng ta đã làm được một số việc song còn tồn tại rất nhiều bất cập. Nếu những vấn đề về giáo dục đạo đức nhân cách chưa được đề cao thì những mặt trái của nền kinh tế thị trường sẽ vẫn tiếp tục ảnh hưởng lớn đến xã hội. Vì vậy việc giáo dục nhân cách đạo đức và đặc biệt là giáo dục về tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh cho lớp trẻ hiện nay là một vấn đề vô cùng quan trọng và đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn của các cấp, các ngành và toàn xã hội. Một vấn đề quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta cần nhắc tới đó chính là quan điểm về dân của người và mối quan hệ giữa Đảng và Dân trong việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển đất nước. Đây được coi là điểm sang trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là kim chỉ nan hành động cho Đảng và nhà nước ta hiện nay. Dưới sự giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn em đã tìm hiểu và viết ra những luận điểm sau đây về sự hiểu biết của mình. Em xin chân thành cảm ơn cô và rất mong nhận được sự góp ý của cô để hoàn thiện thêm kiến thức của mình.
NỘI DUNG
Tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối
1, Khái quát khái niệm về dân và việc hình thành quan niệm về dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái quát khái niệm về dân: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có giai cấp, có nhà nước; đó là khái niệm chỉ những người lao động bình thường, đông đảo, không có chức quyền và đối diện những người cầm quyền cai trị ở các địa bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội.
Tư tưởng về dân ở Hồ Chí Minh không phải tự nhiên xuất hiện, cũng không phải hoàn toàn do người sáng tạo ra, mà chính là do người đã nghiên cứu, thấm nhuần, phê phán, chọn lọc, kế thừa những tư tưởng quan điểm về dân trong lịch sử dân tộc ta và nhân loại. Vì vậy, rất cần thiết phải điểm qua những tư tưởng chủ yếu về dân trong lịch sử để từ đó có cơ sở hiểu sâu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân.
Trong các học thuyết lớn về xã hội, nhất là trong các giới cầm quyền và những người có chức, có quyền xưa nay đều nói về dân và về vai trò của dân với những quan điểm và thái độ rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Vì vậy chúng ta sẽ đi xem xét các quan điểm đối lập này để đánh giá sự tiến bộ hay bảo thủ, phản động của một học thuyết, một giai cấp, một chính đảng, một nhà hoạt động chính trị xã hội nhất định.
2, Những quan điểm và thái độ khác nhau về dân trong lịch sử.
2.1: Những quan điểm và thái độ sai lầm về dân.
Thứ nhất, coi nhân dân lao động đông đảo không nằm trong thành phần dân cư, thậm chí không được coi là con người.
Tư tưởng này xuất hiện từ thời cổ đại ở phương Tây, cách đây hơn 2000 năm. Giới chủ nô quý tộc Hy Lạp, đại diện là platong, đã chia dân cư thành 3 hạng người: 1. những người cầm quyền, cai trị đất nước gồm những nhà triết học tức là trí thức, những người có học vấn trong giai cấp chủ nô thời đó; 2. Những vệ binh có nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và giai cấp chủ nô; 3.Những công dân tự do gồm nông dân và thợ thủ công, có nhiệm vụ sản xuất ra thức ăn, đồ dùng để nuôi sống xã hội. Còn những người nô lệ rất đông đảo trong xã hội cổ đại thì không được giai cấp chủ nô coi là người, mà chỉ được coi là công cụ biết nói bên cạnh những công cụ câm và công cụ nửa câm mà giai cấp chủ nô muốn mua bán, chém giết thế nào cũng được.
Thứ hai: tư tưởng khinh dân, ức dân coi những người lao động chân tay chiếm số đông trong dân cư là hạng tiểu nhân, hèn kém, ngu dốt, chỉ để sai khiến.
Cuối thời Trần, nô tì chiếm số lượng khá đông trong dân cư. Nhiều người đã từng có công lao, lập công xuất sắc trong các cuộc chiến tranh bảo vệ vương triều, nhưng vẫn bị bạc đãi. Vua Trần Hiến Tông đã nói: “bọn gia nô dù có chiến công cũng không được dự vào hang quan tước của triều đình”. Hơn nữa tầng lớp quan lại quý tộc sống xa hoa, tha hồ chà đạp nhũng nhiễu thường dân, coi việc hối lộ, tham ô, vơ vét tài sản của dân là những hành động tự nhiên và hợp pháp. Lịch sử đã ghi lại câu nói của Trần Khánh Dư, một vị tướng quý tộc đời Trần, có công trong cuộc kháng chiến giữ nước nhưng lại rất khinh thường dân chúng: “Tướng là chim ưng, quân dân là vịt; lấy vịt mà nuôi chim ưng thì có gì là lạ”.
Thứ ba: coi quần chúng nhân dân chỉ là một đám đông vô nghĩa, là sức ỳ của lịch sử, hoặc chỉ là phương tiện để giai cấp thống trị sử dụng cho mục đích của chúng.
Thời cận đại, vẫn có không ít những nhà lý luận và chính khách thể hiện những quan điểm rất sai lầm và phản động về quần chúng nhân dân. Hitle, tên trùm phát xít Đức coi quần chúng chỉ là đám người đơn sơ, mơ hồ, yếu đuối và coi các dân tộc khác ngoài dân tộc Đức chỉ là lũ người hạ đẳng, chỉ xứng đáng là nô lệ và bị thống trị. Nitxo coi quần chúng nhân dân không phải là mục đích mà là phương tiện để đi đến mục đích, có nghĩa là quần chúng nhân dân không phải đối tượng phục vụ mà chỉ là đối tượng sử dụng.
2.2: Quan điểm trọng dân, coi dân là gốc của một nước trong tư tưởng triết học cổ đại trung hoa.
Vai trò của dân trong quan hệ với nước với vua đã được một số nhà triết học tiêu biểu của nho giáo nêu cao trong tư tưởng chính trị phương đông cách đây hơn 2000 năm.
Khổng Tử, nhà triết học lớn của Trung Quốc thời Xuân Thu, một người có học vấn uyên bác, được tôn sùng là bậc thánh nhân của nho giáo, đã có tư tưởng đề cao vai trò của dân, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của vua đối với dân. Ông coi điều kiện quan trọng nhất đối với nhà cầm quyền là phải được lòng dân. Và muốn được lòng dân nhà cầm quyền phải biết dưỡng dân, tức là chăm lo cải thiện đời sống cho dân, và phải biết giáo dân tức là dạy dân lấy nghĩa hiếu đễ, thì những người đầu đã hoa râm không đến nỗi phải vác đội vất vả ở đường sá, người trẻ không đến nỗi đói rét như thế nước sẽ hưng thịnh.
Tuân Tử cũng có tư tưởng đề cao dân. Ông cho rằng trời sinh dân không phải vì vua mà trời lập ra vua để vì dân. Mặc Tử cũng có tư tưởng đề cao dân và lấy vấn đề của dân chúng làm trọng.
2.3: Quan điểm của chủ nghĩa Mac-lenin về vai trò của quần chúng nhân dân
Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về dân và quần chúng nhân dân là quan điểm đúng đắn nhất, khoa học nhất, phù hợp với thực tiễn lịch sử. Đây là một cuộc cách mạng trong việc giải phòng con người khỏi ách áp bức thống trị và đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Nhân dân là mục tiêu là đối tượng được hướng đến trên hết trong việc đấu tranh nhằm mạng lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định quần chúng nhân dân giữ một vai trò quan trọng và quyết định sự thành bại của cách mạng. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sẽ đưa cuộc cách mạng đi tới thắng lợi.
2.2: Những tư tưởng nổi bật về vai trò và sức mạnh của dân tronng lịch sử Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam có những tư tưởng truyền thống và tiến bộ về vai trò và sức mạnh của dân,, coi dân là gốc của nước.
Dân gian Việt Nam từ xưa đã có câu: “ Quan nhất thời, dân vạn đại” thể hiện một quan niệm triết lý, một tư tưởng triết lý, một tư tưởng triết học sâu sắc. “ Dân vạn đại” nghĩa là dân gắn với xã hội loài người; có dân, còn dân thì mới có xã hội. Còn ‘ quan nhất thời” nghĩa là quan chỉ xuất hiện, chỉ trở thành một tầng lớp xã hội đã có giai, có nhà nước, và trong tầng lớp quan lại thì mỗi một ông quan cũng chỉ tồn tại vài năm hoặc vài ba chục năm, nhưng dù sao sự tồn tại đó cũng chỉ là nhất thời so với sự tồn tại “vạn đại” của dân, của xã hội. Xét về gốc tích thì quan lại cũng không phải từ trên trời rơi xuống mà đều gắn với dân, đều từ dân: “Quan sang cũng ở làng mà ra”. Vì là “nhất thời” nên đối với bất kỳ một ông quan nào, dù quan nhỏ hay quan to thì cũng đều là: “ hết quan hoàn dân”, nghĩa là khi thôi làm quan, nếu còn sống – dù là về hưu hay thất sủng hoặc bất mãn với thời cuộc – cũng đều về sống với dân, trở thành dân.
Nhân dân lao dộng cũng tự ý thức được vai trò và sức mạnh của mình. Truyền thuyết Thánh Gióng, nhờ được nhân dân nuôi dưỡng (bằng cơm với cà và nước lã) và cung cấp vũ khí (roi sắt, ngựa sắt) đã trwor thành người khổng lồ có đủ sức mạnh đánh thắng giặc Ân. Còn truyền thuyết Mỵ Châu – Trọng Thủy nêu lên một bài học phản diện về An Dương Vương chủ quan mất cảnh giác, chỉ dựa vào vũ khí, không dựa vào sức mạnh của dân để chống giặc ngoại xâm thì kết cục là mất nước và dòng họ cũng tuyệt diệt. Khi dân đã bất mãn, “nổi can qua” – nghĩa là đứng lên khởi nghĩa, làm cách mạng thì có thể lật dổ một triều đâị, một chế độ xã hội, không chỉ làm cho “con vua thất thế phải ra quét chùa” mà còn đưa chính nhà vua lên đoạn đầu đài như trường hợp của Cách mạng Anh thế kỷ XVII và Cách mạng Pháp thế kỷ XVIII. Sức mạnh của dân không chỉ thể hiện ở lực lượng vật chất mà còn cả ở tinh thần, ở tư tưởng, ở dư luận. “Miệng dân sóng bể” nghĩa là dư luận của quần chúng từ người này, chỗ này sang người khác, chỗ khác và tư tưởng của nhân dân thể hiện trong văn học dân gian ( folklore) – truyền từ đời nọ sang đời kia, có sức mạnh như những đợt sóng bể có thể nâng dỡ hoặc nhấn chìm một viên quan, một ông vua hoặc một triều đại nào đó.
Mỗi triều đạt phong kiến Việt Nam thời kỳ đang lên và hưng thịnh đều có quan điểm về dân và mối quan hệ với dân đúng đắn, tích cực nên đã được dân ủng hộ, tập trung được sức mạnh của dân, đánh thắng được giặc ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng được đất nước, đồng thời cũng củng cố được vương triều đó vững mạnh.
Nhà Trần thế kỷ XVIII đã ba lần đại thắng quân xâm lược Nguyên – Mông hung hãn. Nguyên nhân cơ bản của thắng lợi đó, như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã ghi rõ “ Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. “Cả nước góp sức” chính là sức mạnh của toàn dân đã được huy động. Trần Quốc Tuần còn nêu lên một tư tưởng đặc sắc khi ông khuyến tấu vua Trần: “ Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”.
Đầu thế kỷ XI, Hồ Quý Ly chuẩn bị kháng chiến chống quân Minh xâm lược, xây dượng lực lượng thường trực khá đông, có súng thần cơ, có nhiều chiến thuyền, nhưng không đoàn kết được toàn dân, long dân ly tán, nên đã thất bạ, cha con Hồ Quý Ly đều bị giặc Minh bắt. Đúng như Hồ Nguyên Trừng đã: “ Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi.”
Nguyễn Trãi, một nhà văn hóa lớn, một anh hung của dân tộc ta thế kỷ XV, đã nêu ra những tư tưởng sâu sắc về vai trò và sức mạnh của dân. Sauk hi cùng Lê Lợi lãnh đạo cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh thắng lợi, ông viết bài “Bình Ngô đại cáo” hung tráng với hai câu mở đầu về tư tưởng an dân thì trước hết phải trừ bạo ngược:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh đã được Nguyễn Trãi chỉ ra là do đoàn kết được tướng sĩ, tập hợp lực lượng dân chúng khắp nơi:
“ Nên hiệu gậy làm cờ, tập hợp khắp bốn phương dân chúng.
Thiết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một hạng cha con”.
Nói về sức mạnh của dân, ông đã tiếp thụ và nêu lên tư tưởng tiến bộ, ví dân như nước, các triều đại phong kiến như những con thuyền; thuyền nỗi được là nhờ nước. Nước có tác dụng chở thuyền nhưng cũng có sức mạnh lật thuyền: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”.
Ông còn nêu lên tư tưởng ơn dân rất mới mẻ đối với thời đại lúc bấy giờ: “ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. “Kẻ cấy cày” chính là nhân dân lao động, là nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư trong một nước nông nghiệp. Kế tục tư tưởng của Trần Quốc Tuấn, ông yêu cầu vua quan triều đình phải biết “Thương yêu dân chúng, nghĩ làm những việc khoan dân”. Ông khẳng định tư tưởng về thái bình thịnh trị: “Cái gốc của nhạ là ở thôn vắng không có một tiếng giận hờn oán sầu”. Ông chỉ rõ trách nhiệm của người cầm quyền: “Phàm người có chức vụ coi quan trị dân đều phải theo phép công bằng… đổi bỏ thói tham ô, sửa trừ tệ lười biếng, coi công việc của quốc gia là công việc của mình; lấy điều lo của dân sinh là điều lo thiết kỳ”.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm “Thiên nhân tương cảm”, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam coi lòng dân là ý trời và rất quan tâm tới việc kết hợp lòng dân với ý trời. Họ quan niệm lòng dân tức là ý trời được thể hiện ở các điềm lành (mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt) hay điềm dữ (bện tật, mưa bão, lũ lụt, mất mùa…) Người cầm quyền cai trị có đức, làm việc tốt, hợp lòng dân thì trời xuống điềm lành; không có đức, ăn chơi xa xỉ, hoang phí, hại dân, dân oán thì trời xuống điềm dữ để răn bảo.
Khi đã có điềm tai dị của trời tức là dân oán, thì các quan đại thần, những nhà trí thức của các triều đại, am hiểu về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” biết thương xót dân chúng thường dân sớ khuyên nhủ vua chúa sửa lỗi để không giáng tai họa nữa.
Trạng nguyên Giáp Hải, quan đại thần đời Mạc Mậu Hợp, thấy chính sách của nhà Mạc ngày một kém, điềm tai biến ngày một nhiều, gặp khi có bão lớn, ông dâng sơ lên vua Mạc, nói rằng: “Trời ra tai không phải vô cớ, chính ở người mà ra. Tai biến về gió bão là trời hiện điềm để răn bảo…Vậy xin bệ hạ lấy sự biến của trời là đáng sợ, coi nhân sự là cần phải sửa…thi hành mọi điều khoan tất cho dân; ban ra ân dụ để tha những dân vô tội bị ức hiếp; đặc biệt sai quan sở tại thăm nom giúp đỡ luôn. Có thế, ơn của trên ban xuống mới thấm đến kẻ dưới. Lòng người đã vui, tai trời sẽ hết…Xin bệ hạ tôn trọng gốc nước, cố kết lòng dân, hậu đãi mà đừng làm khốn dân; giúp đỡ mà đừng làm hại dân, dè dặt chứ không dùng hết sức của dân, nhẹ bớt cho dân những việc phục dịch tức là chính sách của vương đạo đó”.
Tiến sĩ Nguyễn Duy Thì thời Lê – Trịnh, khi đi sứ về, thường thấy tai dị, đã dâng khải tâu Chúa, nói về trách nhiệm của triều đình và tố cáo bọn quan lại tham nhũng ở các địa phương làm cho dân khốn khổ: “dân dân đều một lẽ, lòng dân vui thì thuận ý trời. Nên người giỏi trị nước phải yêu dân như cha mẹ yêu con: nghe thấy dân đói rét phải lo, trông thấy dân vất vả phải thương, cấm chính thể hà khắc tàn bạo, cấm việc tự tiện thu thuế, để dân được sinh sống thỏa mái, không có tiếng sầu giận thở than. Đó mới là biết đạo trị nước. nay thánh thượng để ý đến dân, ra một chính sách gì là cốt để nuôi dân, thi hành một lệnh gì là cốt ngừa sự nhiễu dân; lòng yêu dân thật như độ lượng của trời đất cha mẹ.
Đại thần Ngô Đình Chất tố cáo bọn quan lại các địa phương chỉ chăm làm việc cay nghiệt, vét hết của cải của dân khiến dân sầu khổ, ông dâng bản điều trần bề trên thương dân, nuôi dân một mảy may nào tiện cho dân cũng nên làm, một mối tệ hại cho dân nào cũng nên bỏ. Lại càng nên ban nhân chính cho dân. Như thế thì người dân đội ơn mà mừng, người xa nghe tiếng mà đến ấy là được lòng dân.
Đại thần Ngô Trí Hòa đã cùng đại thần Lê Tri Bật vào năm 1618 làm tờ khải dâng chúa Trịnh điều trần về chính sách trị dân của triều đình gồm có sáu việc có lợi cho dân.
Cuối thế kỷ thứ XX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, trong khi vua quan nhà Nguyễn dâng đất và ký hiệp ước đầu hàng, thì những người dân ấp dân lân đã anh dũng đứng lên chống giặc, bảo vệ quê hương đất nước. tinh thần đó đã được ca ngợi trong bài “văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của nhà thơ bình dân Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Đình Chiểu quả là trường hợp điển hình của một con người nhờ tin yêu nhân dân sâu sắc mà đã chiến thắng được những hạn chế khắc nghiệt của bản thân: mù lòa, học vấn dở dang, sống nghèo khổ trong hoàn cảnh nước mất. Sự nghiệp văn học của ông vượt xa những người đương thời. Đó không phải nhờ học vấn cử nghiệp mà nhờ lòng tin vô hạn của ông vào nhân dân lao động.
Đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đã đặt được ách thống trị nên đất nước ta phong trào yêu nước của nhân dân ta vẫn bùng nên mạnh mẽ, như phong trào Cần Vương, Đông kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế, đặc biệt là phong trào vận động cách mạng của hai nhà chí sĩ họ Phan. Hai cụ đã thẳng thắn vạch trần bọn quan lại nịnh hót, chỉ biết có vua mà không biết có dân, muốn giữ mãi địa vị của mình, túi tham được đầy mãi. Cụ khẳng định: “ ai coi nước nhà như một món của riêng mình thì ví như bọn trộm cướp, còn ai cậy quyền mà áp chế nhân dân thì ví như quân phản nghịch”.
Phan Bội Châu, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, đã từng sang tầu, sang Nhật tìm đường cứu nước cứu dân và viết những là thư đầy tâm huyết gửi quốc dân đồng bào. Cụ đã có một quan niệm sâu sắc, chí lý về dân, về nước, thể hiện tư tưởng “khinh quân trọng dân”; “ái quốc, ái quần” rất rõ rệt. Cụ thẳng thắn tỏ rõ thái độ của mình đối với vua, đối với quan và đối với dân. Cụ cho rằng kẻ làm vua chẳng qua là người đứng đầu một làng, là viên quản lý một công ty mà thôi. Nếu vua chết đi thì làng và công ty vẫn còn. Vua cũng chỉ là một phần số người trong một nước, có hay không có một phần số người này, đối với một nước thì cũng không thêm bớt một phần đáng kể nào. Như vậy Phan Bội Châu đã từ bỏ tư tưởng tôn quân của hệ tư tưởng phong kiến, đã coi dân là gốc của nước. trong các tác phẩm của cụ dân chúng đã xuất hiện như lực lượng có ý thức về trách nhiệm cao cả của mình.
3, Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về thân dân.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân rất nhất quán và sâu sắc trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, mà đỉnh cao là học thuyết Mác- Lênin. Chính những quan điểm đó đã chỉ ra tính chất, đặc điểm và nội dung của mối quan hệ giữa Đảng với dân. Hơn nữa, những quan điểm đó đang trở thành những định hướng cơ bản, những yêu cầu bức thiết cho công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
Cần khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân là một phạm trù rất rộng nhưng vẫn bao hàm và thể hiện tính giai cấp rõ rệt. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm dân bên cạnh các khái niệm: nhân dân, quần chúng nhân dân, đồng bào…tùy lúc, tùy nơi, tùy từng quan hệ cho thích hợp. Đó là những khái niệm đồng nghĩa, có cùng nội hàm để chỉ mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, không phân biệt tôn giáo, tầng lớp – trong đó công nông chiếm tuyết đại đa số. Khái niệm dân hay nhân dân, quần chúng, đồng bào mà Hồ Chí Minh sử dụng rất dung dị, mộc mạc, dễ hiểu nhưng cũng rất tinh tế, uyển chuyển trong chiều sâu tư tưởng của Người.
Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa Mác – Lenin khi bàn về phạm trù nhân dân thường giới hạn trong phạm vi của mối quan hệ giai cấp, giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân, các tầng lớp bị áp bức bóc lột, mở rộng ra là các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đã kế thừa toàn bộ tư tưởng đúng đắn và cách mạng đó của học thuyết Mác – Lenin khi bàn về phạm trù dân. Hơn thế nữa trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, muốn giành được độc lập cho tổ quốc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân cần phải có một quan niệm về nhân dân rộng rãi hơn, phù hợp với đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng đồng và tinh thần cách mạng của nhân dân Việt Nam. Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh quần chúng nhân dân, dưới ánh sang của chủ nghĩa Mác Lê Nin, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã phát triển, làm phong phú thêm nội hàm của khái niệm dân phù hợp với điều kiện thời đại và đặc điểm của dân tộc.
Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, Người quan niệm dân là người trong cùng một cộng đồng, một quốc gia, một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là “quốc dân”, là “đồng bào”, là “người trong một nước”,…
Thứ hai, dân có chung một nguồn, “đều chung một tổ tiên”, là con “cùng một bọc”, là “con Lạc cháu Hồng”, “đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt”. Vì vậy, “chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.
Thứ ba, dân còn là các tầng lớp, các thế hệ, các giới, các đoàn thể.
Thứ tư, theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”, dân còn bao hàm cả nghĩa quốc tế, nhân loại. Đó là “đại gia đình giai cấp công nhân toàn thế giới” là bạn bè năm châu bốn biển, là nhân dân các châu lục đang đấu tranh chống lại sự nô dịch, bất công để giành độc lập, tự do, tiến bộ và hòa bình chung trên hành tinh.
Thứ năm, dân còn dùng để chỉ những người yêu nước, xây dựng đất nước là lực lưỡng cách mạng. Sự mở rộng nhận thức về dân, làm tăng nội hàm của khái niệm dân ở Hồ Chí Minh không có gì trái với quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, mà chỉ làm cho phạm trù đó trở nên phong phú, đa dạng, vừa mang tính cách mạng, tính giai cấp vừa mang tính dân tộc, càng làm nổi tính chỉnh thể của phạm trù dân.
Đây là nét nổi trội và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm về dân mà Người dùng, một mặt thể hiện quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, mặt khác lại mang tính sang tạo, tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và bản sắc dân tộc ta. Điều đó đã dẫn đến khả năng to lớn trong việc thuyết phục, thu phục mọi lực lưỡng, mọi khả năng của cả dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân nhằm hướng lực lưỡng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy, tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng mặt trận thống nhất cho các thời kỳ cách mạng Việt Nam.
Trên thực tế, Mặt trận đã qui tụ được mọi giai cấp, đảng phái, tầng lớp, thành phần, tôn giáo… nghĩa là tất cả những ai có lòng yêu nước, tán thành độc lập dân tộc và cùng chung xây dựng một nước Việt Nam tự do và hạnh phúc. Nhưng Mặt trận vẫn luôn lấy công – nông – trí làm nòng cốt.
Như vậy, khái niệm dân của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành cơ sở tư tưởng đại đoàn kết. Tư tưởng đó vượt khỏi khuôn khổ tư tưởng thuần túy của một con người, trở thành một chiến lược cách mạng của Đảng ta.
Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh rất phong phú nhưng ở đây có thể khái quát thành những luận điểm lớn như sau:
3.1: Thứ nhất, dân là gốc của nước, của cách mạng:
“Dân là gốc của nước”, “ nước lấy dân làm gốc” là tư tưởng vốn có trong nho giáo trong học thuyết của Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh từng nói trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó chúng ta phải học. “Nước lấy dân làm gốc” là một trong “những điều hay” là một tư tưởng sâu sắc của Nho giáo mà ông cha ta đã kế thừa và vận dụng ở những thời kỳ hưng thịnh của các vương triều trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn năm lịch sử. Tư tưởng đó đã được Hồ Chí Minh trân trọng tiếp thu và thường xuyên vận dụng trong cả cuộc đời hoạt động của Người, đặc biệt là từ sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, người trở thành vị chủ tịch đầu tiên của Việt Nam dân chủ cộng hòa và cũng là chủ tịch Đảng. Nho giáo mà Hồ Chí Minh sử dụng là thứ nho giáo đã Việt Nam hóa vì ngôn ngữ Nho giáo đã quen thuộc với dân tộc ta nên Hồ Chí Minh thường dùng các mệnh đề Nho giáo nhưng đã chắt lọc cho phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng. Cũng là chữ trung hiếu, ở Khổng Tử là trung với vua và hiếu với bố mẹ ở Hồ Chí Minh là “trung với nước hiếu với dân”.
Dân với nước gắn bó với nhau như cá với nước. Trước hết phải có một địa bàn lãnh thổ (điều kiện tự nhiên) nhất định thì dân mới có thể làm ăn sinh sống, phát triển thành một cộng đồng xã hội được. Nhưng tự thân một vùng đất đai tự nhiên nào đó chưa thể gọi là “nước” được, mà phải có công lao khai phá xây dựng của dân có tổ chức xã hội thì mới thành Nước. Nước phải có dân và do dân lập nên. Không có dân thì không có Nước, do đó dân là gốc của Nước. “Gốc” là cơ sở quan trọng nhất của một sự vật, như ta thường nói: Tài liệu gốc, chứng từ gốc, kinh tế là gốc của chính trị và quân sự,… thay đổi tận “gốc” là thay đổi sự vật một cách triệt để. Mất “gốc” là mất cái gì căn bản nhất, làm cho một sự vật biến chất không còn là nó nữa.
Nước là một quốc gia, một vùng lãnh thổ có chủ quyền của những cộng đồng dân cư mà bao giờ cũng có những người cầm quyền mang danh đại diện. Dân là gốc là nền của một nước nhưng không phải ai cũng nhận rõ vai trò đó của dân. Hồ Chí Minh đã từng thẳng thắn vạch ra sai lầm đó. Người cho rằng một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BX880.doc