Trong hoạt động kinh doanh, đầu tư được hiểu là việc cá nhân, tổ chức sử dụng tài sản để tiến hành hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu thu được lượng tài sản nhiều hơn trong tương lai. Lĩnh vực đầu tư rất phong phú, từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, đến việc góp vốn, mua cổ phần hay đơn giản là việc gửi tiết kiệm tại ngân hàng hoặc tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Một trong những lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn, không những về khả năng sinh lời mà còn ở tính hấp dẫn của nó, đó chính là đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán được hiểu là việc một chủ thể nắm giữ chứng khoán để kỳ vọng vào lợi nhuận do chứng khoán đó mang lại trong tương lai. Lợi nhuận có thể thu được từ lãi chứng khoán đang nắm giữ hoặc chênh lệch từ hoạt động mua, bán chứng khoán.
Tình huống: Ông Lợi quyết định mua 1000 chứng chỉ quỹ đầu tư mệnh giá 10000đ với giá 12000 đ/chứng chỉ vào ngày 31/12/2004. Lợi tức trả năm 2005 của quỹ là 10%. Sau khi nhận lợi tức, ông Lợi quyết định bán số chứng khoán này cho bà Nhuận, với mức giá 13500 đ/chứng chỉ.
Như vậy, lợi nhuận mà ông Lợi thu được là:
(13500 x 1000 + 10000 x 1000 x 10%) – 12000 x 1000 = 2500000 đ
Cũng giống như các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán có thể được phân chia thành hai loại là đầu tư chuyên nghiệp và đầu tư không chuyên nghiệp.
Đầu tư chuyên nghiệp là hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán như các công ty chứng khoán, ngân hàng hoặc những định chế đầu tư chuyên nghiệp khác. Những chủ thể này có nguồn vốn dồi dào, có kỹ năng chuyên môn và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để thu lợi nhuận. Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường có những dấu hiệu như:
- Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động chính của chủ thể đó;
- Hoạt động đầu tư chứng khoán mang lại nguồn thu nhập chính;
- Nhà đầu tư chứng khoán có kiến thức và kỹ năng tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán.
Những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường được biết đến là các công ty chứng khoán tự doanh, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm và một số tổ chức tài chính khác.
Bên cạnh những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, có những chủ thể có thể không đủ kiến thức hoặc kỹ năng để tự mình đầu tư, hoặc không coi đó là nghề nghiệp của mình nhưng vẫn có nguyện vọng tham gia đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán để tăng thu nhập. Những chủ thể này được gọi là những nhà đầu tư không chuyên nghiệp
6 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Tìm hiểu về quỹ đầu tư chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu về quỹ đầu tư chứng khoán
TRẦN VŨ HẢI
Thế nào là Quỹ đầu tư chứng khoán?
Trong hoạt động kinh doanh, đầu tư được hiểu là việc cá nhân, tổ chức sử dụng tài sản để tiến hành hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu thu được lượng tài sản nhiều hơn trong tương lai. Lĩnh vực đầu tư rất phong phú, từ việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá, đến việc góp vốn, mua cổ phần hay đơn giản là việc gửi tiết kiệm tại ngân hàng hoặc tham gia vào một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Một trong những lĩnh vực đầu tư rất hấp dẫn, không những về khả năng sinh lời mà còn ở tính hấp dẫn của nó, đó chính là đầu tư chứng khoán. Đầu tư chứng khoán được hiểu là việc một chủ thể nắm giữ chứng khoán để kỳ vọng vào lợi nhuận do chứng khoán đó mang lại trong tương lai. Lợi nhuận có thể thu được từ lãi chứng khoán đang nắm giữ hoặc chênh lệch từ hoạt động mua, bán chứng khoán.
Tình huống: Ông Lợi quyết định mua 1000 chứng chỉ quỹ đầu tư mệnh giá 10000đ với giá 12000 đ/chứng chỉ vào ngày 31/12/2004. Lợi tức trả năm 2005 của quỹ là 10%. Sau khi nhận lợi tức, ông Lợi quyết định bán số chứng khoán này cho bà Nhuận, với mức giá 13500 đ/chứng chỉ.
Như vậy, lợi nhuận mà ông Lợi thu được là:
(13500 x 1000 + 10000 x 1000 x 10%) – 12000 x 1000 = 2500000 đ
Cũng giống như các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán có thể được phân chia thành hai loại là đầu tư chuyên nghiệp và đầu tư không chuyên nghiệp.
Đầu tư chuyên nghiệp là hoạt động của các chủ thể trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán như các công ty chứng khoán, ngân hàng hoặc những định chế đầu tư chuyên nghiệp khác. Những chủ thể này có nguồn vốn dồi dào, có kỹ năng chuyên môn và sẵn sàng chấp nhận rủi ro để thu lợi nhuận. Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường có những dấu hiệu như:
- Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động chính của chủ thể đó;
- Hoạt động đầu tư chứng khoán mang lại nguồn thu nhập chính;
- Nhà đầu tư chứng khoán có kiến thức và kỹ năng tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán.
Những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp thường được biết đến là các công ty chứng khoán tự doanh, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp bảo hiểm và một số tổ chức tài chính khác.
Bên cạnh những nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, có những chủ thể có thể không đủ kiến thức hoặc kỹ năng để tự mình đầu tư, hoặc không coi đó là nghề nghiệp của mình nhưng vẫn có nguyện vọng tham gia đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán để tăng thu nhập. Những chủ thể này được gọi là những nhà đầu tư không chuyên nghiệp.
Ông An là một nhà giáo đã nghỉ hưu. Ông có một khoản tiết kiệm và muốn nó sinh lời nhiều hơn so với việc ông gửi tiền vào ngân hàng. Ông quyết định đầu tư vào chứng khoán, nhưng ông không am hiểu lắm về lĩnh vực này. Thông qua tư vấn của luật sư, ông quyết định mở một tài khoản tại công ty chứng khoán ABC và uỷ thác việc đầu tư cho công ty này. Nhân viên hành nghề chứng khoán của công ty có trách nhiệm sử dụng tiền và chứng khoán trên tài khoản của ông An để mua, bán chứng khoán vì lợi ích của ông.
Trong những trường hợp như vậy, những chủ thể này có thể đầu tư thông qua việc uỷ thác cho công ty chứng khoán hoặc tham gia góp vốn để hình thành một quỹ tài chính, gọi là Quỹ đầu tư chứng khoán.
Quỹ đầu tư chứng khoán là mô hình đầu tư mà theo đó, nguồn vốn của quỹ được đầu tư chủ yếu vào chứng khoán và các nhà đầu tư uỷ thác cho công ty quản lý quỹ quyền trực tiếp điều hành quỹ.
Thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển cho thấy, quỹ đầu tư hình thành trong rất nhiều lĩnh vực đầu tư khác nhau như khai thác kim loại quý, dầu mỏ v.v., nhưng quỹ đầu tư trong lĩnh vực chứng khoán là phổ biến nhất. Ngay trong lĩnh vực chứng khoán, sự chuyên biệt trong lĩnh vực đầu tư cũng này càng rõ nét[1]. ở Mỹ, có khoảng 9000 quỹ đầu tư chứng khoán được thành lập dưới nhiều hình thức[2]. Tại Hàn Quốc, riêng quỹ đầu tư chứng khoán đầu tư vào trái phiếu đã có trên 500 quỹ khác nhau[3]. Tại Thái Lan hiện có trên 70 quỹ đầu tư chứng khoán, còn ở Malaysia có khoảng 17 triệu dân sở hữu chứng khoán của quỹ đầu tư chứng khoán[4].
Xét một cách khái quát, mô hình quỹ đầu tư chứng khoán có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để đầu tư vào chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng khoán với các loại quỹ đầu tư khác. Quỹ có thể xây dựng danh mục đầu tư đa dạng và hợp lý theo quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy định quỹ đầu tư chứng khoán phải dành tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào lĩnh vực chứng khoán. Ngoài việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán cũng có thể tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn, kinh doanh bất động sản v.v..
Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nói một cách khác, các nhà đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán việc quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người có thành tích và được sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ thay mặt các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động đúng mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ ba, quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty quản lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý. Đặc điểm này đảm bảo việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không bị chi phối bởi lợi ích khác của công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán nhằm đảm bảo công ty quản lý quỹ hoạt động quản lý vì lợi ích của các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục đích của riêng mình. Từ yêu cầu tách bạch về tài sản đã chi phối rất lớn đến nội dung những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ.[5]
Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán có thể được thành lập theo nhiều loại khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư. Sự phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán trên thế giới đã dẫn đến có nhiều tiêu chí để phân loại quỹ đầu tư chứng khoán.
Phân loại theo phương thức huy động vốn và quyền quản lý
Nếu phân loại theo phương thức huy động vốn thì quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại là quỹ đại chúng (trước đây gọi là quỹ công chúng) và quỹ thành viên.
Quỹ đại chúng
Quỹ đại chúng là loại quỹ đầu tư chứng khoán được chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quỹ đại chúng thường không bị pháp luật giới hạn về số lượng nhà đầu tư tối đa vào quỹ. Tuy nhiên, do số lượng các nhà đầu tư lớn nên quỹ đại chúng có nhiều giới hạn đầu tư do pháp luật quy định nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn vốn các nhà đầu tư vào quỹ. Trên thế giới, quỹ đại chúng có nhiều dạng khác nhau. Cách phân loại phổ biến dựa vào tiêu chí nghĩa vụ của quỹ đối với nhà đầu tư, theo đó, quỹ đại chúng có hai loại là quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở.[6]
Quỹ đại chúng dạng đóng là loại quỹ mà theo đó, quỹ không có nghĩa vụ mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư được phát hành ra công chúng theo yêu cầu của nhà đầu tư. Do vậy, nhà đầu tư chỉ có thể thu hồi số vốn đầu tư bằng cách chuyển nhượng chứng chỉ quỹ đầu tư cho nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán[7].
Quỹ đại chúng dạng mở là loại quỹ mà theo đó, quỹ có nghĩa vụ mua lại chứng chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của nhà đầu tư. Loại quỹ này có số vốn và số thành viên luôn biến động, nên thường chỉ xuất hiện ở những quốc gia có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nhật Bản v.v..
Pháp luật chứng khoán ở một số quốc gia quy định, quỹ đại chúng dạng đóng chỉ được phép phát hành chứng chỉ quỹ một lần duy nhất khi thành lập quỹ, còn quỹ đại chúng dạng mở có thể phát hành chứng chỉ quỹ nhiều lần. Vấn đề này chưa được Luật chứng khoán 2006 quy định một cách rõ ràng.
Ưu điểm của quỹ đại chúng
- Thứ nhất, quỹ đại chúng có khả năng huy động vốn rộng rãi thông qua việc chào bán chứng khoán ra công chúng. Điều này cho phép quỹ có thể được niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung và như vậy, khả năng thu hút các nhà đầu tư và làm gia tăng giá trị cho chứng chỉ quỹ. Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn ưa thích loại quỹ này ở khả năng thanh khoản cao của chứng chỉ quỹ.
- Thứ hai, quỹ đại chúng có khả năng thu hút được những nhà đầu tư nhỏ và không chuyên nghiệp. Mặc dù từng nhà đầu tư không chuyên nghiệp có thể không có nhiều vốn, nhưng thực tế đã cho thấy lượng vốn do những chủ thể này nắm giữ trong nền kinh tế là rất đáng kể. Nếu quỹ thu hút được nguồn vốn này, sức mạnh tài chính của quỹ sẽ tăng lên rất nhiều.
- Thứ ba, đối với công ty quản lý quỹ, quỹ đại chúng chính là mô hình đầu tư mà công ty có cơ hội thể hiện hết khả năng quản lý của mình, do được các nhà đầu tư trao quyền điều hành quỹ hàng ngày. Chính vì vậy, chiến lược đầu tư của công ty quản lý được thực thi một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn so với mô hình quỹ thành viên.
Nhược điểm của quỹ đại chúng
- Thứ nhất, quỹ đại chúng có số lượng nhà đầu tư tham gia lớn nên có thể gây ảnh hưởng đến giá trị của quỹ vì hai nguyên nhân:
(i) Việc mua bán chứng chỉ quỹ diễn ra liên tục và do đó, có thể làm ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến hình ảnh của quỹ.
(ii) Đối với quỹ đại chúng dạng mở, việc số lượng nhà đầu tư và giá trị ròng của quỹ luôn biến đổi có thể làm sai lệch các biện pháp đầu tư hoặc vi phạm các giới hạn tài chính do pháp luật quy định
- Thứ hai, quỹ đại chúng thường chịu sự giám sát khá chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước trên quan điểm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ. Pháp luật thường có những yêu cầu đối với quỹ đại chúng cao hơn so với quỹ thành viên.
Quỹ thành viên
Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán được lập bằng vốn góp của một số nhà đầu tư nhất định và không phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Nhà đầu tư vào quỹ thành viên được gọi là thành viên góp vốn hay thành viên quỹ đầu tư. Pháp luật thường có quy định giới hạn số lượng thành viên góp vốn của Quỹ thành viên. Luật chứng khoán năm 2006 quy định quỹ thành viên có tối đa không quá 30 thành viên và tất cả thành viên phải là pháp nhân. Thành viên của quỹ thông thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có năng lực tài chính mạnh như công ty tài chính, ngân hàng hoặc doanh nghiệp bảo hiểm. Các thành viên góp vốn có quyền tham gia quản lý quỹ nhiều hơn so với nhà đầu tư trong quỹ đại chúng, đồng thời khả năng chịu đựng rủi ro cũng tốt hơn nên quỹ thành viên không chịu nhiều hạn chế đầu tư như quỹ công chúng.
Ưu điểm của quỹ thành viên
- Thứ nhất, quỹ thành viên thường đưa ra những quyết định quan trọng một cách nhanh chóng do số thành viên ít nên dễ nhóm họp hơn. Bên cạnh đó, tính chuyên nghiệp của những thành viên và kiến thức chuyên môn của họ là một nhân tố quyết định đến sự thành công của quỹ.
- Thứ hai, thành viên của quỹ có quyền năng cao hơn trong điều hành quỹ so với quỹ đại chúng. Pháp luật cũng không có những đòi hỏi khắt khe đối với quỹ trong hoạt động đầu tư chứng khoán như đối với quỹ đại chúng.
Nhược điểm của quỹ thành viên
- Thứ nhất, quỹ thành viên thường không dành cơ hội cho những nhà đầu tư nhỏ tham gia. Những nhà đầu tư nhỏ không thể có đủ khả năng góp những khoản vốn lớn để đảm bảo nguồn vốn của quỹ.
- Thứ hai, quỹ thành viên không bắt buộc phải có ngân hàng giám sát, do đó, nếu cơ chế quản lý lỏng lẻo, có thể sẽ không kiểm soát được một cách tốt nhất những rủi ro trong đầu tư hay ngăn chặn những hành vi gian lận từ công ty quản lý quỹ hoặc của nhân viên.
Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ
Phân loại theo tư cách chủ thể của quỹ thì Quỹ đầu tư chứng khoán có hai loại là quỹ không có tư cách chủ thể và quỹ có tư cách chủ thể.
Quỹ không có tư cách chủ thể [8] là loại quỹ do công ty quản lý quỹ thành lập và không phải là một chủ thể pháp luật. Mọi hoạt động của quỹ đều do công ty quản lý quỹ thực hiện trên cơ sở thoả thuận với các nhà đầu tư vào quỹ. Bản chất của quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách chủ thể là một quỹ tài chính, chứ không phải là một công ty. Tuy nhiên, nguồn vốn của quỹ lại không phải là nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Nó được quản lý một cách độc lập với nguồn vốn các quỹ khác và nguồn vốn của công ty quản lý quỹ. Theo Luật chứng khoán 2006, loại quỹ này được gọi là Quỹ đầu tư chứng khoán.
Quỹ có tư cách chủ thể là một loại quỹ được thành lập dưới dạng công ty, gọi là công ty đầu tư hoặc công ty đầu tư chứng khoán (investment company)[9]. Công ty đầu tư chứng khoán là công ty cổ phần được thành lập theo sự cho phép của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, có hoạt động đầu tư chủ yếu vào chứng khoán. Luật chứng khoán năm 2006 đã quy định về địa vị pháp lý của mô hình này, và đây được coi là một trong những sự khác biệt cơ bản của Luật chứng khoán năm 2006 với những văn bản pháp luật chứng khoán trước đây. Cuốn sách này không đi sâu vào nghiên cứu mô hình đầu tư này, mà chỉ nghiên cứu về mô hình quỹ đầu tư không có tư cách chủ thể (hay Quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật chứng khoán 2006). Việc phân biệt này chỉ giúp độc giả hiểu đầy đủ bản chất của mô hình quỹ đầu tư chứng khoán mà thôi.[10]
Phân loại theo mục tiêu đầu tư của quỹ
Nếu phân loại theo mục tiêu đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán rất đa dạng về loại hình. Sau đây xin được nêu một số loại quỹ đầu tư phổ biến trên thị trường chứng khoán ở các nước có nền kinh tế phát triển:
Quỹ đầu tư trái phiếu
Đây là loại quỹ đầu tư mà chứng khoán do nó nắm giữ là các loại trái phiếu, bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Đầu tư vào trái phiếu được coi là giải pháp đầu tư khá an toàn, vì nó luôn bao hàm khả năng được hoàn trả từ phía những chủ thể phát hành trái phiếu. Đổi lại, mức lợi tức mà quỹ thu được lại không cao nên không phải lúc nào cũng hấp dẫn được các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các quỹ này lại có một ưu điểm là chi phí quản lý thấp do sự ổn định của việc đầu tư, và thường được ưu đãi về thuế hơn các lĩnh vực đầu tư khác.
Quỹ đầu tư mạo hiểm
Đây là loại quỹ đầu tư chuyên tìm kiếm và đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh mới mẻ hoặc những công ty mới được thành lập. Việc đầu tư như vậy có thể đem đến những rủi ro nhiều hơn cho quỹ, nhưng đổi lại, nếu thành công thì mức độ lợi nhuận sẽ cao hơn bình thường. Nhìn chung, mặc dù gọi là đầu tư mạo hiểm nhưng việc đầu tư này không phải là đánh bạc mà luôn có sự cân nhắc, tính toán cụ thể dựa trên những thông tin có thể tin cậy. Trong lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, trình độ của quản trị viên giữ một vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại của quỹ.
Quỹ đầu tư ngành kinh doanh
Quỹ đầu tư ngành kinh doanh là loại quỹ chuyên đầu tư vào chứng khoán của một hoặc một số ngành nhất định như dầu mỏ, điện tử, công nghệ thông tin, v.v.. Việc đầu tư theo ngành thể hiện mối quan tâm của nhà đầu tư và sự hiểu biết của quản trị viên về một ngành nghề nhất định. Đôi khi, các quỹ đầu tư theo ngành sẽ đầu tư vào những ngành có liên quan với nhau nhằm hạn chế rủi ro, ví dụ như đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ và vận tải. Nếu dầu mỏ giảm giá thì đồng nghĩa với việc ngành vận tải sẽ làm ăn phát đạt và ngược lại.
Quỹ đầu tư có mục tiêu đạo đức
Đây là loại quỹ đầu tư đặt mục tiêu đạo đức không thấp hơn mục tiêu lợi nhuận. Quỹ tập trung đầu tư theo những tiêu chí đạo đức mà quỹ đặt ra. Ví dụ: quỹ có thể chỉ đầu tư cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều người lao động là đối tượng chính sách, hoặc cho những doanh nghiệp trên địa bàn kinh tế còn nhiều khó khăn v.v.. Cần nhấn mạnh rằng, đây không phải là một quỹ từ thiện. Đơn giản là, các nhà đầu tư mong muốn kết hợp mục tiêu lợi nhuận với mục tiêu xã hội trong hoạt động đầu tư mà thôi.
Quỹ đầu tư chủ động
Đây là loại quỹ đầu tư mà chiến lược đầu tư thường xuyên thay đổi cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình đầu tư trên thị trường chứng khoán. Những quỹ đầu tư chủ động cần đến những nhà quản trị tài ba kể cả về sách lược và chiến lược đầu tư. Hơn những thế, thông tin và phương pháp xử lý thông tin cũng góp phần quan trọng vào thành công của quỹ.
Quỹ đầu tư thụ động
Ngược lại với quỹ đầu tư chủ động, quỹ đầu tư thụ động coi trọng tính ổn định của danh mục chứng khoán do quỹ nắm giữ. Quỹ tuân thủ những tiêu chí nhất định khi xây dựng danh mục này và thường không có sự thay đổi lớn. Mặc dù có phương pháp tiếp cận ngược hẳn với quỹ đầu tư chủ động, nhưng thực tiễn cho thấy ở Hoa Kỳ, sự thành công của hai dạng quỹ này là ngang nhau.
Rõ ràng với cách phân loại này, không thể kể hết các loại quỹ đầu tư chứng khoán. Thực chất, mỗi quỹ đầu tư đều có một phương thức đầu tư nhất định và điều quan trọng là nó đem lại sự hài lòng cho các nhà đầu tư góp vốn vào quỹ, chủ yếu trên hai phương diện là phương thức đầu tư và lợi nhuận thu được.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tim_hieu_ve_quy_dau_tu_ck.doc