Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia.
Nợ công xuất phát từ nhu cầu chi tiêu công[i] quá lớn của Chính phủ. Chi tiêu công nhằm: Thứ nhất, phân bổ nguồn lực; Thứ hai, phân phối lại thu nhập; Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, chi tiêu công quá lớn hay kém hiệu quả cũng sẽ gây ra những bất ổn cho nền kinh tế. Nhu cầu chi tiêu quá nhiều (đặc biệt cho các khoản đầu tư công) so với nguồn thu có được (từ thuế, phí, lệ phí thu được) sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc Chính phủ phải đi vay tiền (trong hoặc ngoài nước) để trang trải thâm hụt ngân sách dẫn đến nợ công. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành “lãi mẹ đẻ lãi con” và ngày càng chồng chất thêm. Gia tăng chi tiêu công là xu hướng nổi bật trong thế kỷ XX. Xu hướng chi tiêu công diễn ra ngày càng nhanh và mạnh. Cuối thập niên đầu thế kỷ XXI, các nước trên thế giới phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng nặng nề, mà nguyên nhân chủ yếu do chính sách gia tăng chi tiêu công và quá trình quản lý chi tiêu công kém hiệu quả, dẫn đến phải đi vay quá lớn để phục vụ các nhu cầu chi tiêu. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 trở thành chất xúc tác làm cho khủng hoảng nợ công càng trở nên trầm trọng hơn.
29 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Tìm hiểu về Nợ công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ử dụng vốn vay và quản lý nợ công.
Ba là, kế hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm của Chính phủ, gồm: Kế hoạch vay trong nước (gồm huy động vốn ngân sách nhà nước và kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển); Kế hoạch vay nước ngoài, được thực hiện thông qua các hình thức huy động, gồm vay ODA, vay ưu đãi, vay thương mại và được chi tiết theo chủ nợ nước ngoài; Kế hoạch trả nợ, được chi tiết theo chủ nợ, có phân định trả nợ gốc và trả nợ lãi, trả nợ trong nước và trả nợ nước ngoài;
Bốn là, các chỉ tiêu an toàn và giám sát nợ công. Các chỉ tiêu giám sát nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: nợ công so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP), nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu, nợ Chính phủ so với GDP
Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn
Giải pháp cho vấn đề nợ công Việt Nam
Để ổn định quản lý nợ công hiệu quả cần tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế, sử dụng hiệu quả vốn vay cũng như khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong các lĩnh vực đầu tư phát triển (đặc biệt là cơ sở hạ tầng). Hiện thực hóa tiêu chí kiểm soát nợ công hiệu quả cần các giải pháp đồng bộ sau:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược vay nợ phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, kế hoạch thu chi ngân sách nhà nước phù hợp với từng thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ công cần xác định mục đích vay (vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách, để tái cơ cấu nợ, để bổ sung cho các chương trình, dự án đầu tư quan trọng) hay vay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Trong đó, cần chỉ rõ: Khoản vay trong nước hay nước ngoài, thời hạn vay tương ứng (ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn), hình thức huy động và mức lãi suất phù hợp. Đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến; xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu sử dụng (huy động vốn, vay vốn lại đem gửi tiền không kỳ hạn tại ngân hàng thương mại trong khi vẫn phải trả lãi cao).
Thứ hai, nâng cao hiệu quả huy động vốn và tăng cường kiểm soát sử dụng vốn vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Giải pháp này rất quan trọng nhằm đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Vay mượn thì mới có nguồn đầu tư cho tăng trưởng. Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp; trong mọi trường hợp , ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Do đó, vấn đề sử dụng vốn vay sao cho hiệu quả, bởi đó là những đồng tiền vay mượn, phải trả lãi và đến hạn sẽ phải trả nợ. Huy động, sử dụng vốn vay đáp ứng các mục tiêu và nguyên tắc quản lý nợ; Vay cho ngân sách phải kiểm soát chặt chẽ đảm bảo bù đắp bội chi ngân sách nhà nước không quá 5% GDP; Rà soát danh mục dự án sử dụng vốn trái phiếu chính phủ, vay lại vốn vay nước ngoài và bảo lãnh; Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đấu thầu; Tăng cường theo dõi, giám sát và dự báo thị trường.
Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ 2 nguyên tắc cơ bản: Một là, không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; Hai là, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng. Giải pháp dài hạn của Việt nam vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giúp giảm được hàng loạt những rủi ro đối với nền kinh tế.
Thứ ba, giảm bớt gánh nặng cho chi tiêu công, gia tăng nguồn thu ngân sách. Cân đối thu chi ngân sách nhà nước là cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các mặt cân đối khác trong nền kinh tế quốc dân. Để giảm bớt gánh nặng nợ công thì phải giảm bớt gánh nặng về chi tiêu công. Vì vậy, trong chi tiêu công cần quán triệt nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ trong nước. Giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia. Do thâm hụt ngân sách cần khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng kém đi. Kinh nghiệm từ bài học thắt lưng buộc bụng ở châu Âu khi đối với với khủng hoảng (tăng cường tiết kiệm, giảm trợ cấp, tăng thuế đối với người thu nhập cao, thoái vốn tại những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả). Kết quả là quý II/2010, thay vì tăng trường âm, kinh tế châu Âu đã phát triển 1%. Bên cạnh đó, khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công – tư (PPP – Public Private Partnership) để giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế hướng tới phát triển theo chiều sâu, mang lại giá trị gia tăng nhiều hơn thông qua việc đảm bảo sự phát triển của cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và nền tài chính lành mạnh.Nợ công ở một số nước đang phát triển, chẳng hạn như Việt Nam, còn do Chính phủ vay nợ để cấp cho các dự án đầu tư (thường là các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng), nên quy mô nợ công thường là khá cao. Nguồn để trả nợ công là các khoản thu trong tương lai, bao gồm cả thu ngân sách và thu từ các dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay (nếu có). Hầu hết thâm hụt NSNN là dành cho hoạt động đầu tư công và được bổ sung bằng vay nợ trong và ngoài nước. Và số vay nợ trong và ngoài nước cũng dành để đầu tư công, hoặc là đầu tư trực tiếp của Chính phủ, của chính quyền địa phương, hoặc là chuyển cho DNNN đầu tư. Vì vậy, để giảm nợ công, việc tái cơ cấu đầu tư công được xem là giải pháp cấp bách cần thực hiện.
Phát huy nội lực của nền kinh tế nội địa, gia tăng tiết kiệm nội địa để giảm dần sự lệ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn đầu tư nước ngoài. Giải pháp này là cơ sở để gia tăng thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho đầu tư phát triển và giảm bớt rủi ro khi có sự suy giảm của các dòng vốn đầu tư nước ngoài, có sự biến động của nền tài chính toàn cầu về lãi suất, tỷ giá Tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả. Giảm dần sự lệ thuộc của nền kinh tế vào vốn ngân hàng, vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong tương lai.
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu đầu tư công, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệ quả đầu tư xã hội. Mục đích của chính sách đầu tư công phải phục vụ trước hết cho việc thúc đẩy và hỗ trợ phát triển theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi cho mọi người. Tái cơ cấu đầu tư công cần chủ động giảm thiểu đầu tư công nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà phải biết kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với đảm bảo ngày càng tốt hơn công bằng và tiến bộ xã hội, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên của đất nước, bảo vệ môi trường, đảm bảo nguyên tắc phát triển bền vững.
Trong tái cơ cấu đầu tư công cần tăng đầu tư phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản, khoa học và công nghệ, đào tạo và y tế; giảm cấp vốn ngân sách cho khối các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước và chuyển trọng tâm đầu tư công ra ngoài lĩnh vực kinh tế, để tập trung vào phát triển các lĩnh vực hạ tầng và xã hội. Đồng thời, kiên quyết cắt những dự án đầu tư không đạt các tiêu chí về hiệu quả kinh tế – xã hội, tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hoàn thành trong hạn định và có hiệu quả cao. Giảm các công trình đầu tư công bằng nguồn ngân sách có quy mô quá lớn song chưa thật cấp bách, có thời gian đầu tư dài. Việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư công là biện pháp quan trọng giúp giảm thâm hụt ngân sách.
Thứ sáu, đảm bảo tính bền vững, an toàn về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công. Thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trự ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ
Theo dõi chặt chẽ, đảm bảo thanh toán nợ đầy đủ, đúng hạn; Xây dựng ngưỡng an toàn và hạn mức vay phù hợp; Thu thập, báo cáo, công khai các chỉ tiêu giám sát an toàn nợ; Định kỳ báo cáo Chính phủ, hoặc báo cáo đột xuất khi dự đoán có nguy cơ mất an toàn nợ; Phối hợp với các cơ quan chính phủ xây dựng các giải pháp an toàn nợ mang tính thống nhất với các mục tiêu tài khóa và tiền tệ.
Thứ bảy, công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do Chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách, về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô, do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn xác nhận.
Vốn đầu tư ưu tiên thường đi cùng với mối quan hệ lợi ích, một khi vẫn còn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa các nhóm đặc quyền đặc lợi và những người làm chính sách thì sẽ dẫn đến việc điều hành cắt giảm đầu tư công không hiệu quả. Để hoạt động cắt giảm đầu tư công hiệu quả, cần: Một là, phải thiết lập lại kỷ luật tài khóa; Hai là, giảm thâm hụt ngân sách không phải bằng việc tăng thu, mà là giảm chi trên cơ sở tăng hiệu quả chi tiêu; Ba là, các khoản thu vượt dự toán không được dùng để tăng chi tiêu mà phải được dùng để bù thâm hụt ngân sách. Bốn là, cần kiên quyết thu hồi các khoản đầu tư ra ngoài ngành của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Về lâu dài, phải tiến hành cải cách cơ cấu và thay đổi mô hình tăng trưởng vốn đã trở nên lạc hậu, cản trở các động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế.
Vì vậy, trong bối cảnh hội nhập hiện nay của Việt Nam, trước những nhu cầu không nhỏ về nguồn vốn đầu tư nước ngoài, cũng như sức ép từ thâm hụt cán cân thanh toán, minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng mà Việt Nam cần xây dựng để cung cố hình ảnh của đất nước trong con mắt của các nhà đầu tư.
Thứ tám, quy định rõ nhiệm vụ kiểm toán nợ công trong Luật Quản lý nợ công và Luật Kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước kiểm tra, xác nhận số liệu nợ, đánh giá tính bến vững của nợ công/GDP, trong mối quan hệ với bảo đảm an ninh tài chính quốc gia; cơ cấu nợ, tỷ lệ vay nợ nước ngoài trong tổng số nợ; cơ chế quản lý nợ, mục đích sử dụng các khoản vay nợ (nhất là nợ nước ngoài); tính minh bạch trong các khoản nợ giúp Chính phủ có số liệu xác thực để đề ra các giải pháp tổng thể bảo đảm bền vững của ngân sách trong tương lai. Kiểm toán nợ công cần được tiến hành thường xuyên để kiểm soát kịp thời các rủi ro trong quản lý.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán nợ công, cần tiến hành kiểm toán độc lập các hoạt động quản lý nợ công hàng năm. Cho phép các công ty kiểm toán độc lập không trực thuộc nhà nước tham gia vào hoạt động kiểm toán nợ công để đảm bảo tính khách quan, minh bạch. Việc sử dụng các công ty kiểm toán độc lập để kiểm toán nợ công có hai ý nghĩa: Một là, tính khách quan sẽ cao; Hai là, sẽ giảm bớt chi phí của nhà nước trong việc duy trì bộ máy của các công ty kiểm toán nhà nước.
Thứ chín, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế. Tăng cường quảng bá, giới thiệu trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế; Tạo các kênh cập nhật thông tin về kinh tế vĩ mô, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia; Tích cực cập nhật tin tức và dữ liệu thị trường từ các cổng thông tin tài chính quốc tế; Học hỏi kinh nghiệm quản lý và xây dựng chính sách từ các tổ chức quốc tế có uy tín, các quốc gia thành công trong công tác quản lý nợ; Nghiên cứu để từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.
Ước tính, nợ công phải trả trên 2 tỉ USD (năm 2016) so với mức 1 tỉ USD (năm 2010). Nghĩa là, khả năng trả nợ ngày càng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo đảm tính bền vững và an toàn nợ công được coi là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt Nam. Chính phủ, Bộ Tài chính và các ban ngành cần tiến hành các biện pháp giảm tải nợ công một cách hiệu quả nhất, tính toán chặt chẽ các mục tiêu kinh tế, tiến hành cải cách đổi mới và kiểm soát chặt chẽ vấn đề nợ công.
Thứ mười, đề xuất thành lập Quỹ tích lũy trả nợ. Quỹ tích lũy trả nợ được hình thành nhằm đảm bảo khả năgn thanh toán nghĩa vụ nợ của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước phát sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. Bộ Tài chính thực hiện quản lý Quỹ tích lũy trả nợ với nguyên tắc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của Quỹ, sử dụng nguồn vốn của Quỹ đúng mục đích, bảo đảm tập trung đầy đủ, kịp thời các nguồn thu của Quỹ.
Trong bối cảnh nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế – xã hội lớn, khả năng huy động nguồn nội lực chưa đáp ứng đầy đủ thì việc huy động từ các nguồn vốn vay nợ trong và ngoài nước là cần thiết và có vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc huy động vốn vay và trả nợ phải nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Theo “Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 và triển vọng 2030”, đến 2030, nợ công Việt Nam sẽ không quá 60% GDP, trong đó nợ Chính phủ không quá 50% GDP và nợ nước ngoài không quá 45% GDP. Tỉ lệ dự trữ ngoại hối nhà nước so với tổng dư nợ nước ngoài ngắn hạn hàng năm sẽ được đảm bảo trên 200%. Song song với việc đảm bảo tỷ lệ vay an toàn thì việc sử dụng vốn cần đúng mục đích và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ. Vốn vay sẽ góp phần làm giảm bội chi ngân sách dưới 4,5% (năm 2015); giảm xuống lần lượt 4% (năm 2016) và 3% (năm 2020
ừ những kết luận trên, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Không thể phủ nhận rằng để có vốn tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa, việc vay nợ nước ngoài là cần thiết. Nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có những bước phát triển kinh tế đáng nể như Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan đều phải vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia đó chỉ vay tiền để đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu nhất để phục vụ phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tiền vay được họ quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả. Hạ tầng cơ sở ở những quốc gia này một khi đã được xây dựng thì chất lượng rất tốt, được quy hoạch với tầm nhìn dài hạn chứ không phải ngay lập tức hay một thời gian ngắn sau đã phải làm lại, cải tiến hay mở rộng. Các quốc gia này không vay tiền nước ngoài dùng để đầu tư vào những dự án nhỏ lẻ, không thực sự đem lại nhiều giá trị lợi ích xã hội. Họ cũng không dùng những món nợ phải trả trong tương lai này để theo đuổi những siêu dự án trong khi hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong nước còn chưa đầy đủ
Vì vậy, để phát triển kinh tế Việt Nam không thể không vay nợ nước ngoài. Nợ nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo thành cú huých giúp Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, nếu vay nợ quá nhiều sẽ dẫn tới khủng hoảng nợ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế. Để phát huy tối đa việc vay và sử dụng nợ công, cần phải kiểm soát được tình hình vay nợ, sử dụng nợ và trả nợ. Đây chính là ba vấn đề cốt lõi trong giải quyết vấn đề nợ công.
Cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu cho thấy, vấn đề nợ công nếu không được chú trọng quản lý và giải quyết kịp thời sẽ dẫn tới hậu quả khó lường, kể cả việc phải đối đầu với một cuộc khủng hoảng nợ công, và sẽ tác động nghiêm trọng đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới hiện nay và chiều hướng hồi phục kinh tế trong nước, công tác quản lý nợ luôn cần bảo đảm theo đúng nguyên tắc an toàn và bền vững. Về dài hạn, triển vọng của nền kinh tế Việt Nam vẫn là tích cực và tình trạng nợ công của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát nếu Chính phủ có những nỗ lực can thiệp kịp thời. Để kiểm soát nợ công một cách an toàn và bền vững, chúng tôi đề xuất bảy kiến nghị cho việc quản lý nợ công và thâm hụt ngân sách của Việt Nam:
Thứ nhất, thành lập Ban Quản lý nợ công thuộc Ủy ban Ngân sách Quốc hội. Chiến lược nợ là một bộ phận của chiến lược tài chính thuộc thẩm quyền của Chính phủ phê duyệt. Lĩnh vực nợ công liên quan trực tiếp đến ngân sách nhà nước và cân đối vĩ mô của nền kinh tế nên cần có sự quyết định của Quốc hội. Theo quy định hiện hành, Quốc hội có thẩm quyền phê duyệt các chỉ tiêu an toàn về nợ khi phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời hàng năm, Quốc hội phê duyệt tổng mức vay, cơ cấu vay và trả nợ hàng năm của Chính phủ cùng với sự phê chuẩn dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ chỉ tiêu an toàn nợ được Quốc hội phê duyệt, Chính phủ sẽ quyết định các chính sách, giải pháp cụ thể để thực hiện các chỉ tiêu này.
Ban Quản lý nợ công được truy cập mọi thông tin về nợ công và nợ nước ngoài từ các bộ, ngành để những người quản lý nợ công có thể theo dõi, phân tích và giám sát tổng nợ của khu vực công. Hiện tình hình nợ công đang được cập nhật 3 – 6 tháng/lần trên các Bản tin quản lý nợ. Bộ Tài chính đã thành lập Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, giúp cho việc quản lý tập trung thống nhất vấn đề nợ công, đồng thời xây dựng đề án xếp hạng tín nhiệm quốc gia để nâng mức xếp hạng tín nhiệm đảm bảo cho việc vay nợ của Chính phủ cũng như các doanh nghiệp trong thời gian tới một cách tổng thể nhất. Ban Quản lý nợ công cần thực hiện và trình bày báo cáo tổng thể về quản lý nợ công trước Quốc hội hằng quý.
Thứ hai, thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu về an toàn nợ. Để đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí thì cần phải thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ
Giới hạn đối với tổng nợ thường được biểu diễn dưới dạng % của GDP và xuất khẩu. Giới hạn đối với nghĩa vụ nợ thường được biểu diễn theo % tổng thu thuế và dự trữ ngoại hối, hoặc giới hạn vay nợ/chi đầu tư hàng năm. Các giới hạn này cần đưa ra một cách hợp lý. Nếu quá thấp sẽ cản trở Chính phủ thực hiện các phản ứng cần thiết trong thời kỳ khủng hoảng do việc điều chỉnh hoặc thông qua các điều luật mới là mất thời gian. Ngược lại, nếu các giới hạn được thiết lập ở mức quá cao thì không có ý nghĩa.
Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý đối với các hoạt động vay, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia. Đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, quyết toạn việc tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng vốn vay để đảm bảo hiệu quả việc sử dụng vốn vay. Việc huy động các nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài của Chính phủ cần được thực hiện trên cơ sở tiến độ giải ngân, tránh đọng vốn, tăng chi phí trả lãi, đồng thời không gây nên tình trạng gia tăng áp lực cho thị trường.
Thứ ba, thực hiện hạch toán nợ theo chuẩn mực quốc tế. Theo đó, các khoản chi ngoài phải được tuyệt đối tránh. Các gánh nặng ngân sách phát sinh trong tương lai, ví dụ như chi trả lương hưu hay bảo hiểm y tế cũng cần được đưa vào các dự báo về thâm hụt ngân sách. Nợ của doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải được tính toán, phân tích và báo cáo đầy đủ.
Đối với nợ nước ngoài, cần áp dụng các tiêu chuẩn giám sát nợ theo thông lệ quốc tế nhằm duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn. Giảm vay nợ cho các chương trình không hiệu quả, quản lý chặt chẽ vay nợ của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế.
Thứ tư, phát triển thị trường nợ trong nước, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thứ cấp trái phiếu chính phủ. Sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ sẽ giúp cho Chính phủ huy động được vốn với kỳ hạn dài, lãi suất cố định và đặc biệt là bằng nội tệ. Do vậy, các rủi ro liên quan đến lãi suất, tỷ giá và đáo nợ sẽ được giảm thiểu. Ngoài ra, sự phát triển của thị trường trái phiếu chính phủ thứ cấp cũng giúp kéo theo sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Trái phiếu của Việt Nam hiện đang được đánh giá hấp dẫn bậc nhất châu Á bởi mức độ an toàn và lãi suất cao và đang trở thành địa điểm hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
Thứ năm, đánh giá toàn diện về tính hiệu quả của các khoản vay, chi tiêu công theo các lĩnh vực khác nhau. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả năng trả nợ và tính bền vững của nợ công bởi Chính phủ là người đứng ra vay nợ, nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là chủ các dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp Trong mọi trường hợp, ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay nợ. Để đảm bảo hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản: Một là, không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; Hai là, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng.
Nợ công, nợ quốc gia là gánh nặng nguy hiểm cho quốc gia. Trong khi hiệu quả đầu tư thấp thì việc dựa vào vay nợ để tăng trưởng sẽ dễ dẫn đến khủng hoảng nợ, khủng hoảng kinh tế. Do vậy, cần thắt chặt chi tiêu công, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách nhà nước nhằm giảm dần và đưa bội chi ngân sách về mức cho phép (dưới 5% GDP), từ đó làm giảm gánh nặng nợ. Đồng thời cần có chính sách điều hành linh hoạt hơn nhằm ổn định kinh tế vĩ mô để tăng thu ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế cao, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tăng cường dự trữ ngoại tệ để cải thiện chỉ số nợ và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Cần phải đánh giá một cách toàn diện tính hiệu quả của các khoản chi tiêu công ở các lĩnh vực khác nhau chứ không chỉ nhìn thuần túy vào con số tăng hay giảm, tránh mắc sai lầm cắt giảm đồng loạt các khoản chi tiêu theo một tỉ lệ cố định.
Thứ sáu, giảm quy mô và số lượng DNNN đồng thời tăng cường quản trị và tính công khai, minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ công. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ quan chuyên môn xác nhận.
Số lượng và tỉ trọng các doanh nghiệp nhà nước cần được đặt mục tiêu giảm dần thông qua quá trình cổ phần hóa triệt để.
Thứ bảy, hệ thống thuế cần được cải cách đảm bảo các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả và công bằng. Gánh nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý, tất nhiên có lộ trình. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở trình độ phát triển kinh tế và các cam kết hội nhập, chúng ta cần phải cải cách hệ thống thuế bảo đảm định hướng ưu tiên, thúc đẩy các ngành, các lĩnh vực kinh tế có khả năng cạnh tranh, các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế, song cũng phải phù hợp với thông lệ quốc tế. Như vậy, sẽ tạo sự công bằng và khuyến khích phát triển kinh tế theo định hướng trên cơ sở để tạo nguồn thu bền vững.
Cùng với việc điều chỉnh giảm thuế một cách phù hợp, để giảm nợ công thì cần thiết phải giảm chi, tái cơ cấu thu chi ngân sách theo hướng giảm bớt chức năng “nhà nước kinh doanh”, tăng cường chức năng “nhà nước phúc lợi”, giảm quy mô đầu tư và tỷ trọng đầu tư công, chuyển mạnh từ mô hình tăng trưởng “nóng” (dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư và gia công sản xuất kiểu cũ) sang mô hình phát triển theo chiều sâu (gắn tái cấu trúc nền kinh tế với tái cấu trúc và nâng cao kỷ luật tài khóa, nâng cao hiệu quả đầu tư công).
Tóm lại, trong cơ cấu nợ của một quốc gia, nợ công là danh mục nợ lớn nhất. Đây là một cơ cấu tài chính rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính trong nước, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nợ công là một hiện tượng bình thường nếu như thiết lập được hệ thống quản lý và sử dụng nợ công có hiệu quả. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả quản lý nợ công được Chính phủ Việt Nam rất quan tâm. Một nền kinh tế lành mạnh bao gồm rất nhiều yếu tố lành mạnh, trong đó có vấn đề nợ công. Cùng với Ban Quản lý nợ, mỗi người dân cần làm tròn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cau_2_no_cong_7028.docx